BẤT THƯỜNG CỦA NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU
VỀ SỰ BẤT THƯỜNG
CỦA NHỮNG NHÂN VẬT
TRONG TRUYỆN KIỀU
Hầu như chúng ta ai cũng đã đọc
truyện Kiều, thương xót cho thân phận một cô gái khuê các bị rơi vào lầu xanh
vì chữ hiếu. Nhưng có lẽ chúng ta ít ai tìm hiểu sâu xa về các nhân vật trong
truyện.
Hôm nay chúng tôi thử làm cái việc
mà có thể bị những người tôn thờ Truyện Kiều cho là “bới bèo ra bọ”. Nhưng khi
một cuốn sách được coi là đại tác phẩm thì cuốn sách đó phải chịu đựng được mọi
cuộc thử lửa. Trong bài ngắn này, chúng tôi cũng chỉ muốn xem xét một số nhân vật
quan trọng với những bất thường của họ.
Trước hết, chúng tôi nhận xét
hai nhân vật chính là Thúy Kiều và Kim Trọng. Sau đó chúng tôi sẽ tìm hiểu thêm
một vài nhân vật phụ.
(Tranh
của họa sĩ Mai Trung Thứ)
Thúy
Kiều
Về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tả
như sau :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Như vậy, chúng ta biết rằng Thúy
Kiều đẹp, thông minh và tài hoa. Theo quan niệm của cổ nhân, người đã đẹp lại
có nhiều tài tất sẽ bị trời đất ghen, đầy đọa cho bõ ghét. Thúy Kiều vừa đẹp lại
vừa tài hoa làm sao thoát khỏi kiếp đoạn trường. Có những điềm hoặc lới nói báo
trước cho Kiều biết đời nàng sẽ nhiều gian truân. Năm nàng còn thơ ngây, một thầy
tướng đã đoán :
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Rồi sau khi dự hội Ðạp Thanh,
nàng lại mơ thấy Ðạm Tiên cho biết nàng “cùng hôi cùng thuyền” với Ðạm, nghĩa
là cũng sẽ trở thành một kỹ nữ :
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
Những điềm báo trước và những lời
nói ấy đã ảnh hưởng tới tâm lý của nàng rất nhiều. Lúc nào nàng cũng nghĩ rằng
đời mình sẽ chẳng ra gì. Sau khi mơ thấy Ðạm Tiên, nàng đã:
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi.
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi.
Khi thấy Kim Trọng thuộc loại
“chẳng sân ngọc bội, cũng phường kim môn”, nàng đã tự so sánh :
Thấy người lại ngẫm đến ta,
Một dày một mỏng biết là có nên.
Một dày một mỏng biết là có nên.
hoặc :
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
Nỗi buồn rầu và lo lắng cho
tương lai đã ảnh hưởng tới tiếng đàn của Kiều. Chính Kim Trọng đã nhận xét :
Rằng: Hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
So chi những khúc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
So chi những khúc tiêu tao,
Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.
Sau này, Hồ Tôn Hiến cũng phải
thắc mắc:
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu,
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay.
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay.
Tiếng đàn bạc mệnh ấy chỉ hết buồn
thảm khi nàng đã trải qua mười lăm năm luân lạc và đã được gặp lại gia đình,
tái hồi cùng chàng Kim.
Ngoài tâm trạng đau buồn và bất
an của Kiều, nhìn chung, nàng là một người tốt, có hiếu với cha mẹ, thủy chung
với người tình. Nhưng trong cuộc đời luân lạc của nàng, người ta cũng nhận thấy
có những lúc nàng xử sự không đúng hoặc tự mâu thuẫn. Khi mới gặp Từ Hải, nàng
đã khen Từ như sau:
Nàng rằng: Lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Nghĩa là nàng đoán Từ sẽ có ngày
lên ngôi vua. Vậy mà khi Hồ Tôn Hiến dụ hàng, nàng đã khuyên Từ với lời lẽ
khinh miệt:
Ngẫm từ dấy việc binh đao,
Ðống xương Vô Ðịnh đã cao bằng đầu.
Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào
Ðống xương Vô Ðịnh đã cao bằng đầu.
Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào
Nàng đã coi Từ như một tướng giặc,
không còn là một đấng anh hùng làm nên sự nghiệp đế vương nữa. Thật ra, Hoàng
Sào cũng không phải là một tướng giặc tầm thường. Họ Hoàng muốn cướp ngôi nhà
Ðường, chiêu binh mãi mã nổi lên, đã chiếm được Trường An, nhưng rồi bị thất bại.
Cái lệ ở đời là “được làm vua, thua làm giặc”. Rõ ràng là Thúy Kiều đã tiền hậu
bất nhất. Vì lời khuyên của nàng Từ đã bị họ Hồ phản bội và chết đứng giữa trận
tiền.
Khi Kiều báo ân trả oán, người
ta cũng nhận thấy có nhiếu điểm vô lý, thiếu sót. Có hai người đã giúp đỡ nàng
khi nàng bị hành hạ, nàng chỉ trả ơn có một người. Ðó là Mã Kiều và mụ quản gia
trong nhà Hoạn bà. Nàng đã quên Mã Kiều, chỉ nhớ có mụ quản gia. Thật ra, Mã Kiều
mới đáng được trả ơn.
Khi Kiều mắc lận Sở Khanh, bị Tú
Bà bắt về đánh đập rất tàn nhẫn:
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra,
Ðang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
Hết lời thủ phục, khẩn cầu,
Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.
Ðang tay vùi liễu, dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
Hết lời thủ phục, khẩn cầu,
Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.
Sau khi Kiều van xin và hứa hẹn: “Chút
lòng trinh bạch từ sau cũng chừa”, Tú Bà mới nguôi và đòi phải có người bảo
lĩnh. Mã Kiều vì thương Thúy Kiêu nên đã đứng ra bảo lĩnh:
Bầy vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan.
Còn về mụ quản gia, chỉ sau khi
Kiều bị mẹ Hoạn Thư đánh đòn phủ đầu và bắt làm thị tì, mụ mới tỏ lòng xót
thương, rồi khuyên:
Ở đây, tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi .
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi .
Có người cho rằng cả Mã Kiều lẫn
mụ quản gia đều chỉ là “cò mồi”, làm nhiệm vụ được chủ giao phó, không thật sự
có lòng thương xót Kiều. Nếu đúng như vậy, tại sao Kiều chỉ nhớ ơn mụ quản gia
mà quên Mã Kiều?
(Tranh
của nữ họa sĩ Ngọc Mai)
Kim
Trọng
Nhân vật thứ hai chúng tôi muốn
nói tới là Kim Trọng. Tác giả tả chàng Kim như sau:
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.
Một vùng như thể cây quỳnh, cành dao.
và:
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Đó nghĩa là Kim Trọng rất đẹp
trai, tính tình hào hoa và lịch sự. Nhưng có thật Kim Trọng “vào trong phong
nhã ra ngoài hào hoa” như tác giả tả không? Chúng ta đọc đoạn thơ sau đây để có
thể xác định rõ hơn:
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai.
Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm, xốc áo vội ra,
Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
Giơ tay, với lấy về nhà,
Này trong khuê các đâu mà đến đây.
Khi Kim Trọng đã phải “giơ tay với
lấy” tức là chàng đã thò tay sang nhà hàng xóm để lấy kim thoa, vì kim thoa mắc
trên cành đào trong vườn nhà Thúy Kiều, hơi xa hàng rào. Xuân Phúc, trong cuốn
“KIM-VÂN-KIỀU” (nhà xuất bản Thanh Long ở Bruxelles, Bỉ, năm 1986) dịch sang chữ
Pháp như sau: “Etendant le bras, il prit l’objet et le ramenant chez
lui.” Còn giáo sư Huỳnh Sanh Thông dịch sang Anh ngữ là: “He reached
for it and took it home.” (The Tale Of Kiều, trang 17). Như vậy, rõ ràng
Kim Trọng thò tay sâu vào nhà hàng xóm để lấy kim thoa. Thế mà hôm sau chàng lại
nói với Kiều:
Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp phố mà mong châu về.
Biết đâu Hợp phố mà mong châu về.
“Bắt được hư không” có nghĩa là
tình cờ mà nhặt được chứ không phải với tay sang nhà người ta mà lấy trộm. Ðã
ăn cắp đồ lại nói dối nữa, có phải là tư cách của một người “vào trong phong
nhã, ra ngoài hào hoa” không? Cách đây khoảng nửa thế kỷ, tôi dạy một lớp đệ
Tam C, một nam sinh đã nói đùa: “Chàng Kim con nhà giầu, đẹp trai, học giỏi, chỉ
có tội ăn cắp vặt thôi.”
Thúy
Kiều chờ Thúc Sinh về nhà sắp xếp, nhưng Thúc Sinh lại không nghe lời Kiều để
công khai chuyện muốn nhận vợ bé. (Tranh của nữ họa sĩ Ngọc Mai)
Thúc
Sinh
Nhân vật thứ ba chúng tôi nói tới
là Thúc Sinh. Tác giả tả chàng Thúc như sau:
Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích, châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích, châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Thúc vừa là nhà buôn giàu vừa
còn đi học. Có lẽ Thúc ông giàu lắm nên con trai mới được làm rể một quan Lại bộ
và chàng Thúc mới có lối ăn chơi hoang phí:
Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Thúc là con nhà giàu, ham chơi
hơn ham học nên lúc nào cũng chỉ là sinh viên. Trong khi đó, Kim Trọng và Vương
Quan đều đỗ đạt, ra làm quan. Một sự tình cờ là mười mấy năm sau Kim Trọng được
làm quan ở Lâm Truy. Thúy Vân bỗng mơ thấy Kiều, kể lại cho chồng nghe. Chàng
Kim bèn mở cuộc điều tra. Viên lại già họ Ðô chỉ biết có một phần câu chuyện
nên đề nghị quan hỏi “Thúc sinh viên”. Như vậy, đi học (sinh viên) là một nghề
của Thúc, không phải là một phương tiện để tiến thân như mọi người.
Về tính tình, Thúc cũng không phải
là người tốt. Khi dụ Kiều trốn khỏi thanh lâu, Thúc đã mạnh bạo hứa hẹn:
Ðường xa chớ ngại Ngô, Lào,
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Ðã gần chi có điều xa,
Ðá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
Ðã gần chi có điều xa,
Ðá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
Vậy mà khi Kiều bị Hoạn Thư bắt
về Vô Tích để hành hạ, Thúc không dám công khai bênh vực nàng, chỉ “khôn ngăn
giọt ngọc, sụt sùi nhỏ sa”. Khi bị vợ hạch hỏi tại sao khóc lại nói dối là nhớ
thương mẹ mới chết. Hình như, ngoài tiền bạc, chàng Thúc còn nhiều nước mắt nữa.
Khi Kiều bị quan Phủ đánh đòn, chàng cũng chỉ biết khóc mà thôi. Chưa có người
đàn ông nhiều nước mắt như chàng.
Sau này, khi biết không còn hy vọng
sống với Kiều nữa, chàng nhẫn tâm đuổi khéo nàng:
Tông đường chút chửa cam lòng,
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
và:
Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Kiều không còn lối nào thoát nên
đành phải trốn đi:
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giầy cầu sương.
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giầy cầu sương.
Ðêm khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường xá, phần thương dãi dầu.
Sư
Giác Duyên
Nhân vật thứ tư chúng tôi muốn
nhận xét là sư Giác Duyên. Về vị sư này, chúng tôi cũng có một vài thắc mắc.
Trước hết, chúng tôi nghĩ rằng bà là một nhà tu vô trách nhiệm. Trước khi trốn
khỏi nhà Hoạn Thư, Kiều đã ăn cắp chuông vàng, khánh bạc để phòng thân. Nàng
may mắn được gặp sư trụ trì chùa “Chiêu Ẩn Am” là Giác Duyên tiếp đón nồng hậu.
Nàng liền trao cho sư những bảo vật đó. Sư không thắc mắc gì nhiều, cho nàng được
trú chân trong chùa. Sư còn tỏ vẻ quý mến nàng vì thấy nàng thông tuệ khác thường.
Cho đến một ngày, có một người “đàn việt” nhận ra nguồn gốc của chuông vàng
khánh bạc thì sư hốt hoảng hỏi Kiều:
Giác Duyên thực ý lo lường,
Ðêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay.
Ðêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay.
Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn dù rủi dù may tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
Sau đó, sư tìm cách đuổi Kiều ra
khỏi chùa. Sư giao nàng cho một mụ chuyên môn buôn người không thua gì Tú Bà.
Ðuổi Kiều xong, sư phủi tay, không còn nhớ đến nàng nữa. Mãi đến khi nàng trả
ân, báo oán, cho rước mời sư tham dự sư mới gặp lại nàng. Trong thời gian đó,
nàng đã bị Bạc Bà ép lấy Bạc Hạnh rồi đưa nàng sang châu Thai bán cho lầu xanh.
Tu hành như vậy mà cuối cùng Giác Duyên cũng đắc đạo, “mây bay, hạc lánh”, cũng
“hái thuốc phương xa” thì kể cũng lạ.
Ngoài tinh thần vô trách nhiệm của
Giác Duyên, chúng tôi còn thấy tình cảm của nhà sư vẫn chưa thoát khỏi phàm tục.
Khi biết chuông vàng khánh bạc do Kiều mang tới là bảo vật của nhà họ Hoạn, sư
hốt hoảng, lo sợ, không bình tĩnh như người đã tu hành lâu năm. Ðã thí phát đi
tu thì việc đời còn có gì đáng lo sợ nữa đâu.
Hồ
Tôn Hiến
Cuối cùng, chúng tôi xin nói qua
về Hồ Tôn Hiến, một quan Tổng đốc trọng thần của nhà Minh.
Có quan tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Ðẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Ðẩy xe vâng chỉ đặc sai,
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung.
Hãy xin bỏ qua chuyện lừa gạt của
họ Hồ trọng vụ đầu hàng của Từ Hải, vì việc quân ngoài chiến trường có thể tùy
cơ mà ứng biến, dù theo sử nhà Minh, họ Hồ bị các quan trong triều phản đối
chuyện giết người đã đầu hàng. Chúng tôi chỉ muốn đề cập tới chuyện Hồ đối xử với
Kiều. Nhờ Kiều, Hồ đã giết được Từ Hải, nên đã tỏ lòng biết ơn, nói với nàng rằng:
Ðã hay thành toán miếu đường,
Chấp công cũng có lời nàng mới nên.
Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?
Chấp công cũng có lời nàng mới nên.
Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?
Lúc đó, Kiều chỉ xin chôn cất Từ
một cách đàng hoàng. Nhưng về sau này, trong tiệc “hạ công”, Hồ nửa tỉnh nửa
say ép nàng tấu đàn:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm, vượn hót nào tày,
Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày, rơi châu.
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu,?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay.
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm, vượn hót nào tày,
Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày, rơi châu.
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu,?
Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay.
Trong cơn “ngây vì tình”, Hồ ngỏ
ý muốn nạp Kiều làm thiếp, nhưng nàng từ chối:
Còn chi nữa, cánh hoa tàn,
Tơ lòng đã dứt dây đàn tiểu lân.
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may.
Tơ lòng đã dứt dây đàn tiểu lân.
Rộng thương còn mảnh hồng quần,
Hơi tàn được thấy gốc phần là may.
Có lẽ vì lời từ chối đó nên khi
tỉnh rượu Hồ đã để tâm thù, nghĩ rằng mình là “phương diện quốc gia” đâu phải
phường trăng gió. Ðáng lẽ, nếu là một quân tử, Hồ phải cho Kiều về với gia
đình. Nhưng ông là người tiểu tâm nên gả nàng cho một thổ quan, vừa chứng tỏ
mình không có tình ý gì với nàng vừa muốn đầy đọa nàng cho bõ ghét. Ðường đường
là một “quan tổng đốc trọng thần”, “kinh luân gồm tài” mà đối xử với một cô gái
chân yếu tay mềm như vậy kể cũng là tiểu nhân.
Theo Dư Hoài trong “Ngu Sơ Tân
chí”, ba nhân vật Hồ Tôn Hiến, Từ Hải và Thúy Kiều có thật. Từ Hải, hiệu là
Minh Sơn, đã từng đi học, nhưng thi mấy khóa không đỗ, quay ra đi buôn, trở nên
giầu có. Nhưng theo Phạm Quỳnh, Từ Hải đã từng đi tu, có đạo hiệu là Minh Sơn.
Từ là người phóng khoáng, hào sảng, thích giao du với giới giang hồ, hiệp
khách. Còn Thúy Kiều là một kỹ nữ, người Lâm Truy. Khi nàng nhảy xuống sông Tiền
Ðường bị chết chìm, không được cứu sống như trong truyện.
Thúy
Kiều hầu rượu cho Thúc Sinh và Hoạn Thư. (Tranh của nữ họa sĩ Ngọc Mai)
Hoạn
Thư và Thúy Vân
Sau khi nhận xét qua một số nhân
vật, chúng tôi thấy trong Truyện Kiều, chỉ có Hoạn Thư và Thúy Vân là những người
có những hành động hợp lý và đáng khen nhất.
Hoạn Thư không đánh ghen một
cách ồn ào, mù quáng và tàn ác như nhiều người lầm tưởng. Chúng tôi đã có một
bài riêng để minh
oan cho Hoạn Thư về chuyện đánh ghen nên trong bài này chỉ xin nói vắn
tắt.
Hoạn Thư sẵn sàng chấp nhận chồng
có vợ nhỏ, miễn chàng Thúc phải thông báo cho đúng phép tắc. Nàng đã ướm lời
trước để chồng thú nhận, nhưng Thúc ngu dốt tưởng giấu được vợ nên làm lơ:
Rằng: Trong ngọc đá, vàng thau,
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài.
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
Ðã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười.
Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
Khen cho những miệng dông dài.
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
Ðã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười.
Nếu là người khôn, Thúc đã nhân
cơ hội này mà thú thật, chắc Hoạn Thư cũng phải tha thứ và chấp nhận. Nhưng
Thúc lại tưởng Hoạn không biết chuyện mình có vợ nhỏ nên đã bỏ lỡ cơ hội.
Sau khi sai Khuyển Ưng bắt cóc
Kiều về, Hoạn cũng tỏ ra có cảm tình với Kiều. Nàng chỉ hành hạ Kiều để dằn mặt
chồng cho bõ tức. Khi đã hả cơn giận, nàng cho Kiều ra Quan Âm Các để tu. Không
những thế, nàng còn khen Kiều viết chữ đẹp:
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua.
So vào với thiếp Lan đình nào thua.
Như vậy, Hoạn Thư là người có
lòng nhân từ. Nàng không đánh đập, đầy đọa Kiều như nhiều người đàn bà khác
đánh ghen. Nàng cũng không cho người truy lùng, bắt Kiều lại khi Kiều ăn cắp
chuông vàng khánh bạc trốn đi. Vì thế, sau này, trong cuộc báo ân trả oán, Kiều
đã phải tha Hoạn Thư dù coi Hoạn là “chính danh thủ phạm”.
Thúy
Kiều nhờ cậy Thúy Vân. (Tranh của nữ họa sĩ Ngọc Mai)
Cuối cùng, chúng tôi xin nói tới
Thúy Vân. Có người cho rằng Vân đã giả dối khi nhường lại Kim Trọng cho chị
trong bữa tiệc đoàn viên. Chúng ta thử đọc lại đoạn văn đó để xét tình ý của
Thúy Vân xem như thế nào?
Tàng tàng chén cúc dở say,
Ðứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong tác hợp cơ trời,
Ðôi bên gặp gỡ một lời kết giao.
Ðứng lên Vân mới giãi bày một hai.
Rằng: Trong tác hợp cơ trời,
Ðôi bên gặp gỡ một lời kết giao.
Gặp cơn bình địa ba đào,
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Cũng là phận cải duyên kim,
Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao.
Những là rày ước mai ao,
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
Bây giờ duyên vỡ lại lành,
Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
Còn duyên may lại còn người,
Còn vành trăng bạc, còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba, bảy đương vừa,
Ðào non sớm liệu se tơ kịp thì.
Thúy Vân đã rất thành thật khi đề
nghị Kim Trọng và Thúy Kiều nối lại tình xưa, với những lý do sau đây:
1.
Nàng chỉ là một người đã làm
tròn nhiệm vụ được giao phó. Sau khi bán mình để lấy tiền chuộc cha và em ra khỏi
lao tù, Kiều nhớ đến mối tình của Kim Trọng nên đã năn nỉ Thúy Vân thay mình mà
trả nghĩa cho tình lang:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Thúy Vân là người phúc hậu, hiền
lành (khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang) nên khi đã nhận lời giúp chị thì cố
gắng làm tròn bổn phận. Thật ra, trong cuộc gia biến ấy, mọi người phải cố gắng
góp sức giải quyết những khó khăn.
2.
Tục lệ cổ của người Trung Hoa
xưa, người đàn ông có quyền “năm thê, bảy thiếp”. Có những trường hợp chưa chọn
được chính thê, người đàn ông có thể cứ lấy vợ, nhưng đều là vợ nhỏ (thiếp).
Thúy Vân tự coi mình là một thiếp của Kim Trọng.
3.
Thúy Vân lúc nào cũng thương nhớ
người chị đã hy sinh cả cuộc đời mình cho gia đình. Ðó là một hy sinh quá lớn đối
với một thiếu nữ khuê các vừa đến tuổi cập kê. Vì thế, khi Kim Trọng đến trấn
nhậm Lâm Truy, nàng bỗng nằm mơ thấy Kiều. Tỉnh dậy, nàng nói ngay cho chồng biết
để thăm dò tin tức Kiều. Ðiều này chứng tỏ lòng thành thật biết ơn của nàng với
người chị can đảm và xấu số.
Vậy, khi gia đình đã được đoàn tụ
trở lại sau mười lăm năm luân lạc của Kiều, Thúy Vân đã thành thật nhường lại
Kim Trọng cho chị và sẵn sàng lui xuống hàng thiếp thì có gì là giả dối đâu vì
đó cũng là một cách trả ơn chị,
Chúng tôi hy vọng bài nhận xét
ngắn này sẽ giúp các bạn có thể hiều hơn về một cuốn truyện vẫn được coi là đại
tác phẩm của nền văn học Việt Nam.
Tạ Quang Khôi
Tháng 11, 2008
Tháng 11, 2008
Nhận xét
Đăng nhận xét