VỀ Ý NIỆM “LAI CĂNG” TRONG VĂN HỌC - Nguyễn Hưng Quốc
VỀ Ý
NIỆM “LAI CĂNG”
TRONG VĂN HỌC
Trong ngôn ngữ phê bình văn học,
chữ "lai căng" còn nặng hơn cả chữ "dở". "Lai
căng", trước hết, có nghĩa là "dở"; nhưng "lai căng"
còn tệ hại hơn "dở" ở chỗ nó là một cái dở do bắt chước một cách
nhẹ dạ và mù quáng, một thái độ phản bội đối với truyền thống và văn hoá của
dân tộc. Bởi vậy, nếu "dở" chỉ là biểu hiện của sự bất tài thì
"lai căng" không những là biểu hiện của sự bất tài mà còn là biểu
hiện của sự kém cỏi về trí tuệ, hơn nữa, của việc thiếu đạo đức.
Nhưng trong lãnh vực văn học,
thực chất của "lai căng" là gì?
Trong phong trào Thơ
Mới thời 1932-45, theo Hoài Thanh và Hoài Chân, trong cuốn Thi
nhân Việt Nam, có hai nhóm chính: một nhóm chịu ảnh hưởng của thơ Pháp và một
nhóm chịu ảnh hưởng của thơ Đường. Điều đặc biệt là không có ai trong nhóm sau
bị buộc tội là "lai căng" cả, cho dù trong đó có kẻ bắt chước thơ
Đường rất dữ, như Quách Tấn, J.Leiba, Thái Can hay Nguyễn Giang, chẳng
hạn. Tất cả những người bị chê bai là "lai căng" đều thuộc nhóm thứ
nhất, như Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ và Nguyễn Xuân Sanh. Như vậy, trong cách
nhìn của mọi người, "lai căng" không phải là bắt chước nước ngoài mà
là bắt chước phương Tây.
Chưa hết. Một hiện tượng khác
cũng thú vị không kém: trong ba người bị chê là "lai căng" vừa kể,
Xuân Diệu là người được xoá tội sớm nhất dù ông là người chịu ảnh hưởng
của thơ Pháp nặng nhất và vay mượn những cách diễn đạt trong tiếng Pháp nhiều
nhất. Tại sao?
Lý do của sự "phân biệt đối
xử" này chủ yếu là vì thơ Xuân Diệu... hay. Những câu thơ Xuân Diệu mô
phỏng cách nói của Pháp, như "Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm" hay
"Yêu là chết ở trong lòng một ít" hay "Hơn một loài hoa đã rụng
cành" đã được độc giả, đặc biệt giới thanh niên, đón nhận như những sự học
tập đầy sáng tạo!
Nguyễn Xuân Sanh và nhóm
Xuân Thu Nhã Tập gần đây cũng được "xoá tội" vì người ta bất ngờ
khám phá ra hình như sau những bài thơ một thời bị coi là "tắc tị",
là "bí hiểm" và là "nhảm nhí" của ông thấp thoáng có cái gì
như... hay và mới so với nền thơ đương thời.
Chỉ có Nguyễn Vỹ, cho đến bây
giờ, vẫn tiếp tục mang tiếng là... "lai căng", có lẽ chủ yếu là chưa
ai chứng minh được là những bài thơ 12 âm tiết của ông là... hay, dù hiện nay
nó đã được dùng tương đối khá phổ biến (1). Như vậy, "lai căng" không
phải là bắt chước Tây phương: "lai căng" chỉ là một hiện tượng bắt
chước vụng mà thôi.
Như vậy cũng có nghĩa là nếu
người ta bắt chước mà thành công thì không còn bị gọi là "lai căng".
Nó sẽ trở thành một sự học tập đầy sáng tạo như chữ người ta thường dùng. Nhưng
nói như thế cũng có nghĩa là nói "lai căng" là một hiện tượng không
có thật. Chỉ có thơ hay và thơ dở; văn hay và văn dở, chứ không có vấn đề lai
căng hay không lai căng. Có thể nói là thế giới văn học là thế giới miễn nhiễm
vi trùng ngoại lai.
Lai căng là một khái niệm giả.
Thế nhưng người ta vẫn sợ. Như là sợ ma. Nỗi sợ vu vơ ấy khiến tâm hồn người
Việt Nam lúc nào cũng bị giằng co giữa hai cực: chúng ta vừa thèm thuồng sức
mạnh về kỹ thuật của Tây phương lại vừa lo bị biến thành những đứa con lai; vừa
muốn duy tân lại vừa bảo thủ. Cứ một bước tiến lại một bước lùi. Mới rục rịch
tiếp xúc với Tây phương là đã ồn ào tổ chức bao nhiêu hội nghị về "hiện
đại và truyền thống", trong đó, quan điểm chính bao giờ cũng ít nhiều đồng
nhất khái niệm hiện đại với Tây phương và khái niệm truyền thống với Đông
phương, chủ yếu là Trung Hoa, hơn nữa, Trung Hoa thời cổ đại và trung đại.
Với cách nhận vơ như thế, chúng
ta dễ có ảo tưởng là truyền thống giàu có vô cùng: trong lãnh vực văn học,
chẳng hạn, chúng ta vừa có lục bát vừa có thơ Đường luật; vừa có Truyện
Kiều lại vừa có cả Tam quốc chí; vừa có ca dao vừa có những tư tưởng
mỹ học của Trung Hoa, từ thi ngôn chí đến văn dĩ tải đạo. Tuy nhiên, với
cách nhận vơ như thế, chúng ta chỉ thụt lùi lại cái thời Bắc thuộc về văn hoá
mà thôi.
Nói cách khác, trong quan hệ với
Trung Hoa, chúng ta chưa thoát khỏi tâm lý thuộc địa: tự xem mình như một phần
của Trung Hoa văn hiến; trong quan hệ với Tây phương, chúng ta vẫn chưa thoát
khỏi tâm lý hậu thuộc địa: nhìn nền văn minh kỹ thuật như nhìn một cái gì của
"chủ", vừa thèm thuồng vừa đố kỵ và nghi kỵ. Chưa bao giờ chúng ta
thực sự thanh thản và đủ tự tin để dám là mình, dù là một cái "mình"
nghèo nàn, lạc hậu và yếu đuối, từ đó, thoát khỏi hai phản ứng quen thuộc: hoặc
là bắt chước hoặc là kháng cự, để, cũng từ đó, có một thái độ học tập chủ động
và sáng tạo. Và, cuối cùng, để thoát khỏi cảnh cứ thậm thụt mãi trước ngưỡng
cửa của văn minh và tiến bộ.
Thậm thụt: có lẽ không có từ nào
mô tả chính xác hơn hình ảnh của một nền văn học thuộc địa và hậu thuộc địa như
là nền văn học Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua cũng như trong những năm đầu
tiên của thế kỷ 21 này.
Buồn.
Chú thích:
Ngoài tai tiếng về "lai
căng", Nguyễn Vỹ còn mang tiếng là "loè bịp". Tôi cho đó
chỉ là hậu quả của cách phê bình đầy ác ý của Hoài Thanh. TrongThi nhân Việt
Nam (nxb Thiều Quang, Sài Gòn, 1967, tr. 105-110), Hoài Thanh mở đầu bài
viết về Nguyễn Vỹ như sau: "Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng,
trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng
hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy
con người ấy không có gì." Dùng chữ "lúc đầu" là hàm ý cho đó
chỉ là một ấn tượng sai lầm, là công nhận Nguyễn Vỹ thực sự có tài. Nhưng không
phải. Sau đó, Hoài Thanh lại tiếp tục tô đậm tính chất "loè bịp" của
Nguyễn Vỹ bằng đoạn: "Nguyễn Vỹ quả đã muốn loè những kẻ tầm thường là bọn
chúng ta. Thực ra, chúng ta cũng dễ bị loè. Nhưng ở chỗ nào khác kia. Chứ trong
văn chương thì hơi khó." Những nhận định kiểu như vậy đã làm nhiều người
(trong đó có cả tôi, khi mới bắt đầu cầm bút) xem Nguyễn Vỹ như một điển
hình của sự ồn ào và lố bịch.
Thực ra, đó chỉ là một sự oan ức
cho Nguyễn Vỹ. Thứ nhất, những cố gắng thử nghiệm của ông không phải hoàn toàn
vô ích: những câu thơ 12 âm tiết hay nhiều hơn nữa sau này được sử dụng khá
nhiều, và dưới ngòi bút của một số nhà thơ tài hoa, khá hay. Thứ hai, dù bản
thân ông không thành công ở thể thơ 12 chân, nhưng ít nhất Nguyễn Vỹ cũng để
lại hai bài thơ thuộc loại kiệt tác trong thời 1932-45: bài "Sương
rơi" và "Gửi Trương Tửu". Với Vũ Đình Liên, chỉ được mỗi bài
"Ông đồ"; với Đoàn Phú Tứ, chỉ được mỗi bài "Màu thời
gian"; với Thâm Tâm, cũng chỉ có mỗi một bài "Tống biệt", chúng
ta đã mừng rỡ và trân trọng hết sức. Với Đông Hồ, Bàng Bá Lân, Trần Huyền Trân,
Phạm Huy Thông... có lẽ không có bài thơ nào ngang tầm với hai bài thơ của
Nguyễn Vỹ, chúng ta cũng vô cùng thương mến. Chỉ riêng với Nguyễn Vỹ, với hai
đóng góp lớn như vậy, vẫn bị Hoài Thanh, và sau đó, chúng ta thay phiên nhau...
chửi.
Nhận xét
Đăng nhận xét