TIÊN HỌC LỄ - HẬU HỌC
VĂN
Vương Trung Hiếu
Một số người cho rằng
Tiên học lễ, hậu học văn (先学禮後学文) là tục ngữ
gốc Trung Quốc, nhưng trên những trang mạng Trung văn, người Trung Quốc lại hỏi
nhau câu này nghĩa là gì.
Đơn giản là vì câu Tiên học
lễ, hậu học văn không có nguồn gốc từ Hán ngữ và cũng không phải là câu xuất
phát từ quan điểm chữ “lễ” của Khổng Tử. Theo sách Từ Hải, Lễ (礼)
vốn nghĩa là kính thần rồi dần chuyển nghĩa thành kính trọng ai đó, về sau dùng
để “chỉ các quy phạm đạo đức và các chuẩn mực xã hội” (Luận ngữ).
Chữ lễ (礼)
không phải do Khổng Tử nghĩ ra và cũng không xuất phát từ Nho gia, bởi vì trước
đó, “lễ” đã manh nha từ thời Tam Hoàng Ngũ đế, đến thời Nghiêu-Thuấn thì trở
thành lễ nghi qua “ngũ lễ”: cát lễ (吉礼), hung lễ (凶礼),
tân lễ (宾礼), quân lễ (军礼)
và gia lễ (嘉礼). Khổng Tử thời Xuân Thu chỉ là người
kế thừa, phát huy chữ lễ đến mức tột đỉnh của Nho gia: “khắc kỉ phục lễ” (克己复礼),
để rồi trong thiên Nhan Uyên của Luận ngữ, Khổng Tử viết: “Phi lễ vật thị, phi
lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, nghĩa là: “Không hợp với lễ
thì đừng nhìn, không hợp với lễ thì đừng nghe, không hợp với lễ thì đừng nói,
không hợp với lễ thì chẳng nên làm”. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đã sử dụng
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí để làm nền tảng chuẩn mực cho đạo đức. Lễ chính là “tâm
khiêm tốn nhường nhịn” (từ nhượng chi tâm/辭讓之心), “tâm biết
đúng sai” (thị phi chi tâm/是非之心), lễ là một
trong những phẩm hạnh đạo đức của con người. Về sau, Tuân Tử còn coi trọng “lễ”
hơn cả Mạnh Tử (qua trước tác Lễ luận). Tuân Tử sử dụng “lễ” và “hình” để trị
nước…
Đó là vài nét về chữ lễ ở
Trung Quốc thời xưa, còn ở Việt Nam hiện nay thì sao?
Có quan điểm cho rằng
nên bỏ khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn vì câu này là sản phẩm của nền giáo dục
Nho giáo, khiến người dưới phải phục tùng, giữ “lễ” với người trên, trở nên thụ
động và không còn tư duy phản biện. Việc loại bỏ câu này giúp giải phóng sức
sáng tạo…
Quan điểm trên đã vấp phải
sự phản đối của nhiều người, bởi vì, hiện nay chữ “lễ” không còn được hiểu là phục
vụ cho giai cấp phong kiến và Nho giáo, mà chính là “lễ nghĩa, đạo đức, những
phép tắc ứng xử đúng đắn, tốt đẹp trong gia đình và ngoài xã hội. Lễ thực chất
là học làm Người”. Câu Tiên học lễ, hậu học văn có ý nghĩa là “trước hết phải
rèn luyện đạo đức, tu dưỡng nhân cách của bản thân; sau đó mới học đến những kiến
thức văn hóa, nâng cao vốn hiểu biết”.
Vậy, câu Tiên học lễ, hậu
học văn xuất hiện vào thời nào? Có nhà nghiên cứu khẳng định là vào thời Chu
Văn An (1292 - 1370), nhưng chưa có cứ liệu nào chứng minh được điều này. Câu
Tiên học lễ, hậu học văn có lẽ là do những nhà Nho người Việt nghĩ ra, xuất hiện
từ giai đoạn nửa đầu thế kỷ 19 (thời nhà Nguyễn), đặc biệt là được treo trong
những trường tiểu học và trung học tại miền Nam Việt Nam. Điều này được ghi nhận
trong quyển Vietnam and the Chinese Model A Comparative Study of Vietnamese and
Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century của Alexander
Woodside (Harvard University. Council on East Asian Studies, 1988, tr.343).
Có người cho rằng “dù hiểu
chữ lễ theo nghĩa tốt thì cũng không nên duy trì “khẩu hiệu” này, không nên đặt
“lễ” (đạo đức) trước “văn” (tri thức), vì hai thứ đều cần như nhau, không trước
không sau”. Dĩ nhiên, quyết định bỏ hay giữ câu Tiên học lễ, hậu học văn thì còn
tùy thuộc vào giới có thẩm quyền. Song cần lưu ý, nếu vẫn giữ câu này thì không
nên coi chỉ là lời nói suông, mà cần phải là phương châm định hướng giáo dục.
Nhận xét
Đăng nhận xét