ĐẢ THẢO KINH XÀ
ĐẢ THẢO KINH XÀ
“Đả thảo kinh xà” (Đập
cỏ cho rắn sợ), xuất phát từ tích như sau. Đời Đường có viên quan huyện Vương Lỗ
hay ăn của đút, tham ô, sách nhiễu dân ghê gớm. Một lần, dân chúng họp nhau,
làm một lá đơn kiện tên thuộc hạ của Vương Lỗ phạm pháp, nhận của hối lộ. Vương
Lỗ xem thì thấy trong đơn kiện liệt kê rất nhiều tội trạng, tất cả đều không
khác gì tội của mình, nên vừa xem vừa run lẩy bẩy, rồi buột miệng nói: “Cái
này...cái này...chẳng phải là đang nói về ta hay sao?”.
Họ Vương càng xem đơn càng kinh sợ,
không còn biết phải phê đơn thế nào cho đúng, tự dưng viết ra trên giấy tám chữ:
“Nhữ tuy đả thảo, ngô dĩ xà kinh” (汝虽打草,吾已蛇惊), nghĩa
là tuy ngươi đập cỏ, nhưng ta lại tưởng mình là con rắn hoảng sợ trong đám cỏ
đó (*).
Về sau, thành ngữ này được dùng với
nhiều nghĩa:
1. Trừng phạt người
này, để cảnh cáo kẻ khác.
2. Hành động thiếu thận
trọng, sở hở, khiến đối phương đào thoát.
3. Chưa đủ sức để diệt
trừ được kẻ ác đã nôn nóng, lớn tiếng, khiến kẻ ác được phòng bị và quay trở lại
làm hại chính mình.
4. Biết kẻ ác đang ẩn
nấp đâu đó, nhưng không đủ sức diệt trừ, nên đánh động để đối phương biết mà
chuồn đi.
(Kế này hay được áp dụng
trong thực tế: Khi phải lội vào đám cỏ cây rậm rạp, người ta thường xua đập, tạo
ra tiếng động lớn, để nếu có rắn trú ẩn, thì chúng sẽ trườn đi).
“Đả thảo kinh xà” cũng là một kế hay.
Tuy nhiên, với rắn độc thì đánh ra đánh, đập ra đập, vì dân gian cho rằng, giống
rắn độc hay trả thù. Đánh rắn mà không chết, nó sẽ quay lại báo thù, hậu hoạ
khôn lường. Thế nên có câu “Đả xà bất tử, hậu hoạn vô tận” [打蛇不死後患無盡].
HOÀNG TUẤN CÔNG
(*) -Nguyên văn (theo
chengyu.t086.com): 唐朝的时候, 有一个名叫王鲁的人, 他在衙门做官的时候, 常常接受贿赂, 不遵守法规. 有一天, 有人递了一张状纸到衙门, 控告王鲁的部下违法, 接受贿赂. 王鲁一看,状纸上所写的各种罪状, 和他自己平日的违法行为一模一样. 王鲁一边看着状纸, 一边发着抖: “这...这不是在说我吗?”. 王鲁愈看愈害怕, 都忘状纸要怎么批, 居然在状纸上写下了八个大字: “汝虽打草,吾已蛇惊”.
Nhận xét
Đăng nhận xét