NHỮNG CÁI TÊN (3)
NHỮNG CÁI TÊN (3)
Ở entry "Những cái tên" kỳ trước, bạn
Marguérite, quê ở miền Tây Nam bộ có nói "Rảnh rỗi, bác H tìm hiểu tiếp
các địa danh ở miền Tây thử. Hồi trước hay nghe ba mẹ Marg nhắc những cái tên
rất hay: Thanh Bình, Hòa An, Tịnh Thới... nhưng cũng có những cái tên khá ngộ:
Lấp Vò, Cái Vồn...". Một ý kiến rất hay, tuy nhiên cũng làm tôi... toát mồ
hôi hột, bởi lẽ miền Tây Nam bộ là một nơi chốn tuy tôi cũng đã vài lần
ghé qua, nhưng chỉ là đi chơi, du lịch đây đó một vài ngày, những nơi tôi đã đi
qua như Mỹ Tho, Đồng Tháp, Cái Bè, Cần Thơ, Sóc Trăng, Rạch Giá, Long Xuyên, Hà
Tiên... nhưng gần như tôi không biết gì nhiều về vùng Miệt vườn sông nước, cò
bay thẳng cánh đầy thú vị này...
Nhưng tôi cũng thử mang hết... khả năng, phi thoàn
thử tìm hiểu xem sao...
Như bạn Marg. đã viết có những cái tên rất hay như
Thanh Bình, Hòa An, Tịnh Thới... Những cái tên chữ, mang âm Hán Việt như thế
chắc hẳn là tên được đặt sau này trên những vùng đất mới Nam bộ, những cái tên
được đặt là để mong được như... tên gọi: Thanh Bình, Hòa An, Tịnh Thới... Duy
có chữ "Thới" trong Tịnh Thới, tên chữ Hán là "Thái", vì kỵ
húy tên của chúa Nguyễn Phúc Thái nên đổi thành "Thới", ở Biên Hòa
cũng có núi "Châu Thới"... kiêng kỵ như thế.
Miền Tây Nam bộ là vùng đất xưa của người Khmer,
cho nên vẫn còn rất nhiều những địa danh mang âm hưởng của tiếng Khmer, nhà bác
học Trương Vĩnh Ký ngày xưa cũng đã tổng kết được cả trăm tên gọi được phiên âm
từ tiếng Khmer, và cũng đã có rất nhiều học giả xưa nay đồng ý như thế. Những
địa danh sau đây có lẽ từ tiếng Khmer. Chẳng hạn Cần Thơ, được phiên âm từ chữ
"Kìntho", tiếng Khmer có nghĩa là "cá sặc rằn", một loại cá
có rất nhiều tại vùng đất này. Cần Giờ phiên âm từ "Kanchoeu"
(thúng), Cần Giuộc là "Kantuôt" (cây tầm ruột, chùm ruột), Cà Mau là
từ "Srôk Tưk Khmau" (xứ, nước đen), Sa Đéc là Phsar Dek (chợ,
sắt)... Và còn rất nhiều địa danh khác được hình thành như thế...
Có một câu ca dao (hay tục ngữ) quen thuộc với
người miền Nam "Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh/ Gái nào bảnh bằng gái Nha
Mân" (bảnh, có nghĩa là đẹp, duyên dáng, ưa nhìn...). Gà chọi Cao Lãnh
ngày xưa là loại gà chọi có tiếng vùng Nam kỳ Lục Tỉnh, còn Nha Mân là một địa
danh thuộc tỉnh Đồng Tháp, nơi nổi tiếng về phụ nữ đẹp. Theo nhiều nhà nghiên
cứu, thì địa danh Nha Mân cũng từ tiếng Khmer mà ra, Oknha Mân (ông quan
Mân).
Còn tên gọi Cao Lãnh nghe nói là từ chữ Câu Lãnh.
Đây là tên của ông Câu đương Đỗ Công Tường ở thôn Mỹ Trà (tục danh là Lãnh, Câu
đương là một chức nhỏ ở thôn quê thời nhà Nguyễn). Năm canh Thìn 1820 nước ta
bị một trận dịch tả nặng, vùng Mỹ Trà có nhiều người bị bệnh dịch chết. Bấy giờ
người ta cho rằng bịnh là do trời đất phạt. Ông Tường (Lãnh) cùng vợ nguyện
chết để cứu dân. Sau khi hết dịch, người dân cho rằng ông Tường (Lãnh) và
vợ đã cứu họ nên lập miếu thờ, gọi là miếu Ông bà chủ chợ. Chợ Vườn Quýt hay
Chợ Ông Câu lần hồi được gọi là Chợ Câu Lãnh, bây giờ là Cao Lãnh...
Tên Lấp Vò cũng thế, từ tiếng Khmer Srôk Tak Por,
có nghĩa là xứ trét ghe thuyền... Địa danh Cái Vồn là từ chữ Srok Tà Von, nghĩa
là xứ Ông Vôn... Một địa danh khác ở miền Tây là Trà Ôn, cũng bắt nguồn từ
tiếng Khmer Tà Ôn (Ông Ôn). Ở Đồng Tháp có một địa danh là khu du lịch Xẻo
Quýt, Quýt thì chắc là trái quýt rồi, trồng nhiều ở Đồng Tháp, còn Xẻo tiếng
miền Nam, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Hùinh Tịnh Paulus Của viết là Xẽo (dấu
ngã), giải nghĩa là: đàng nước vằn vằn, ngọn rạch nhỏ như cái cựa gà...
Ở Đồng Tháp cũng có địa danh tên là Tam Nông, là từ
Hán Việt, có sách giải thích đây là cách chia dân làm ruộng ngày xưa làm 3
hạng: Thượng nông, Trung nông, và Hạ nông, xưa chia 3 hạng như thế để đánh
thuế... Còn địa danh Đồng Tháp, Đồng Tháp Mười, thì trong Châu bản triều
Nguyễn ngày 1 tháng 3 năm Tự Đức thứ 18 (27-3-1865) có đoạn: Lại việc nữa;
quan Tây có đến Vĩnh Long nói: tháng chạp qua đảng Thiên Hộ Dương, tên quản Là
đã đánh giết bốn người Tây, bắt sống một. Nói lên rằng đã giải đến Vãng Tháp
nộp cho Thiên Hộ Dương...". Theo sử sách thì địa danh Vãng Tháp (tháp đã
đổ nát) đã có từ trước năm 1865.
Còn theo Công báo Nam kỳ của Pháp đưa tin: "Ngày 17-4-1886, đã chiếm được Tháp Mười". Đây là lần đầu tiên địa danh Tháp Mười xuất hiện. Về từ Tháp Mười, có giả thiết nói là "Tháp 10 tầng", giả thiết khác cho là "Tháp thứ 10" (có lẽ là tháp xưa của người Khmer). Giả thiết nghiêng về Tháp thứ 10 nhiều hơn, bởi trong kiến trúc xây tháp xưa, người Khmer không xây nhiều tầng như người Việt và người Trung Hoa.
Ở An Giang có địa danh Cù lao Ông Chưởng, Cù lao là phiên âm từ tiếng Mã Lai "pulaw", còn Ông Chưởng là Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, công thần triều Nguyễn, người có công khai phá vùng đất phương Nam.
Còn theo Công báo Nam kỳ của Pháp đưa tin: "Ngày 17-4-1886, đã chiếm được Tháp Mười". Đây là lần đầu tiên địa danh Tháp Mười xuất hiện. Về từ Tháp Mười, có giả thiết nói là "Tháp 10 tầng", giả thiết khác cho là "Tháp thứ 10" (có lẽ là tháp xưa của người Khmer). Giả thiết nghiêng về Tháp thứ 10 nhiều hơn, bởi trong kiến trúc xây tháp xưa, người Khmer không xây nhiều tầng như người Việt và người Trung Hoa.
Ở An Giang có địa danh Cù lao Ông Chưởng, Cù lao là phiên âm từ tiếng Mã Lai "pulaw", còn Ông Chưởng là Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh, công thần triều Nguyễn, người có công khai phá vùng đất phương Nam.
Trong sách vở, nhà văn Sơn Nam khi nói về vùng đất
Nam bộ có dùng tên gọi Miệt vườn, Miệt, phương ngữ Nam bộ, trong Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị có giải thích là: xứ, miền, một dãy đất. Từ Miệt có nghĩa tương
đương với từ Miền, không biết hai từ ngữ này có liên quan gì đến nhau hay không?
Phạm Ngọc Hiệp
Tham khảo:
- Cửa sổ tri thức tập 2, PGS. TS. Lê Trung Hoa, NXB Trẻ, xuất bản năm 2007.
- Địa danh học Việt Nam, PGS. TS. Lê Trung Hoa, NXB Khoa học-Xã hội, xuất bản năm 2011.
- Quốc ngữ hiện đại, Nam Xuyên, NXB Văn Nghệ, xuất bản năm 2009.
Nhận xét
Đăng nhận xét