Mặc dù các nhà lãnh đạo quân sự miền Nam trong Bộ Tổng tham mưu Liên quân
không biết những gì Bắc Việt lên kế hoạch cho Cao nguyên, nhưng họ biết rằng
quân Bắc Việt sẽ cố gắng lợi dụng thắng lợi của họ ở Phước Long. Các tướng lĩnh
Sài Gòn tìm đến Tổng thống Thiệu để xin chỉ dẫn, nhưng không có chỉ dẫn nào được
đưa ra, vì Thiệu rõ ràng vẫn đang trong tình trạng bị sốc khi mất đứt cả một tỉnh.
Quyết định không rút quân cũng không tăng cường lực lượng phòng thủ ở Phước
Long của ông đã dẫn đến việc mất một số lượng lớn binh lính và thiết bị mà
không dễ dàng thay thế được. Ngoài cuộc khủng hoảng đang gia tăng trên chiến
trường, nhiều mối quan tâm cá nhân hơn đã khiến Thiệu mất tập trung. Theo Nguyễn
Tiến Hưng, một trong những cố vấn thân cận nhất của Thiệu, tổng thống miền
Namluôn “đa nghi”, “giấu giếm” và “cảnh
giác với một cuộc đảo chính chống lại mình”. Sự cảnh giác của ông chỉ tăng lên
sau những chiến thắng của quân Bắc Việt ở Phước Long và những chiến thắng tiếp
theo sau đó.Hưng kết luận: “Tính
đanghi của Thiệu đã khiến ông không nhận
được sự phục vụ tận tâm của những người có năng lực, đội ngũ nhân viên đầy đủ,
sự tham vấn và phối hợp. Cuối cùng, bản chất giấu giếm của ông đã khiến các tướng
lĩnh của ông nhầm lẫn về ý định thực sự của ông. Thiệu đã không chia sẻ các mục
tiêu dự phòng của mình với những người xung quanh cho đến khi quá muộn để tập hợp
lực lượng của riêng mình và thời điểm để phát triển các kế hoạch tác chiến hợp
lý đã vuột qua.” Tính hay giấu giếm và bất lực trong giải quyết cuộc khủng hoảng
của ông sẽ có kết quả thảm khốc khi quân Bắc Việt tiếp tục tấn công. Bộ Tổng tham mưu Liên quân khuyến nghị Thiệu xem xét một kế hoạch phòng
thủ khác phản ánh tình hình mới trên chiến trường. Họ tán thành “việc cắt xén
lãnh thổ”, hoặc rút ngắn các phòng tuyến của miền Nam đến các vị trí dễ phòng
thủ hơn, và thủ tiêu sắc lệnh “không từ bỏ lãnh thổ”. Chắc chắn là nhận ra tác
động chính trị của việc từ bỏ lãnh thổ cho Bắc Việt mà không chiến đấu, Thiệu
thậm chí còn từ chối xem xét các khuyến nghị của Bộ Tổng tham mưu.Bùi Diễm, cựu đại sứ miền Nam tại Hoa Kỳ, cho
rằng một lý do khác khiến Thiệu từ chối thảo luận về chiến lược mới là ngay cả
sau khi mất tỉnh Phước Long, Thiệu vẫn tiếp tục giữ “niềm tin rằng người Mỹ sẽ
không bao giờ chấp nhận việc Cộng sản tiếp quản miền Nam, ít nhất là không phải
trong tương lai gần”. Sự tự tin rõ ràng của Thiệu đã đặt nhầm chỗ. Vào tháng 10 năm 1974, Tổng
thống Ford đã viết thư cho tổng thống miền Nam, nhắc lại rằng không có thay đổi
nào trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với miền Nam và đưa ra cho Thiệu
lời “cam kết chắc chắn rằng chính quyền này sẽ nỗ lực hết sức để cung cấp sự hỗ
trợ mà ngài cần”. Tuy nhiên, vị tổng thống Mỹ mới cũng gặp phải những rắc rối của
riêng mình. Chính quyền non trẻ của ông đã bị đổ lỗi cho tình trạng thất nghiệp
gia tăng, nợ quốc gia tăng vọt và cuộc khủng hoảng năng lượng liên tục diễn ra
sau lệnh cấm vận dầu mỏ của người Ả Rập năm 1973.Tuy nhiên, Ford muốn tôn trọng những lời hứa
lặp đi lặp lại của Tổng thống Nixon với Thiệu. Thật không may, những vấn đề
liên tục ở Trung Đông đã chiếm phần lớn thời gian của ông, và ngay cả khi ông
có thể tập trung vào Đông Nam Á, ông vẫn bị Quốc hội trói tay, vào tháng 12
1974, Quốc hội đã thông qua một dự luật viện trợ quân sự toàn thế giới, trong
đó đặt ra mức trần chỉ 617 triệu đô la viện trợ cho miền Nam, Campuchia và Lào
cộng lại. Tuy nhiên, Ford vẫn tìm kiếm thêm tiền để hỗ trợ miền Nam. Ông bị Quốc hội
ngày càng thù địch chặn lại ở mọi thời điểm. Vào ngày 8 tháng 1, Nhà Trắng, cáo
buộc rằng “bên kia đã chọn vi phạm hầu hết các điều khoản chính của thỏa thuận
này [Hiệp định hòa bình Paris]”, đã yêu cầu một gói viện trợ quân sự bổ sung với
số tiền là 522 triệu đô la để tài trợ cho miền Nam và Campuchia cho đến hết năm
tài chính hiện tại (kết thúc vào tháng 6). Chính quyền đã vận động hành lang mạnh
mẽ để có được yêu cầu bổ sung, cố gắng thuyết phục Quốc hội rằng việc cắt giảm
viện trợ sẽ “làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng miền Nam trong giai đoạn quan
trọng khi lực lượng Cộng sản ở miền Nam ngày càng mạnh hơn và hung hăng hơn” và
rằng điều cấp thiết là phải “cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ đang kiên định thực
hiện các cam kết của mình và tiếp tục là một đồng minh đáng tin cậy và kiên định”.
Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, cả công chúng và Quốc hội đều không hoan
nghênh yêu cầu viện trợ mới. Các cuộc biểu tình thắp nến trước Nhà Trắng phản đối
yêu cầu viện trợ mới của tổng thống cho miền Nam, và thư từ của quốc hội phản đối
mạnh mẽ việc tăng viện trợ. Tuy nhiên, chính quyền đã đặt cược rằng, về lâu
dài, người dân Mỹ sẽ không muốn chứng kiến chiến thắng của quân đội Bắc Việt ở
miền Nam và sẽ không để các đại diện được bầu của họ cắt viện trợ. Nhóm của tổng
thống đã phát động một chiến dịch nhằm gây sự đồng cảm với người miền Nam đang
yếu thế. Quốc hội khóa 94 đã phản ứng mạnh mẽ. Thượng nghị sĩ Kennedy cho biết
chính quyền đang sử dụng “các mối đe dọa và chiến thuật hù dọa” để chứng minh
cho yêu cầu viện trợ của mình: “Một lần nữa chúng ta lại nghe thấy những lập luận
cũ rích và những tranh cãi cũ rích về cùng một cuộc chiến cũ rích. Cuộc xung đột
đẫm máu và dai dẳng này xứng đáng được chúng ta sử dụng nhiều biện pháp ngoại
giao hơn, chứ không phải nhiều đạn dược hơn”. Kennedy không đơn độc.82thành viên của Nhóm Nghị viên Quốc hội lưỡng đảng vì Hòa bình Qua Luật
trong một lá thư gửi Tổng thống cho biết họ thấy “không có lợi ích nhân đạo hoặc
quốc gia” nào để biện minh cho việc viện trợ Đông Nam Á. Lãnh đạo đa số Thượng
viện Mike Mansfield tuyên bố rằng ông “phát ngán với những bức ảnh đàn ông, phụ
nữ và trẻ em Đông Dương bị tàn sát bởi súng của Mỹ và đạn dược của Mỹ ở những
quốc gia mà chúng ta không có lợi ích sống còn”. Vào ngày 3 tháng 2, Ford đã gặp gỡ với ban lãnh đạo quốc hội và đề xuất rằng
một phái đoàn lưỡng đảng sẽ đến miền Nam để đánh giá tình hình quân sự, chính
trị và kinh tế. Một chuyến thăm trước đó tới Sài Gòn vào tháng 1 của Thượng nghị
sĩ Sam Nunn của bang Georgia đã thuyết phục Nunn rằng việc cắt giảm viện trợ
quân sự đã làm suy yếu nghiêm trọng QLVNCH và “nếu không tiếp tục hỗ trợ từ Hoa
Kỳ, . . . thảm bại chắc chắn sẽ xảy ra”. Ford hy vọng rằng một phái đoàn thứ
hai sẽ đi đến cùng một kết luận và do đó sẽ làm việc với ông để thông qua dự luật
viện trợ bổ sung. Như một trong những cố vấn của ông đã nói: ông muốn đặt “gánh
nặng quyết định lên vai họ [phái đoàn quốc hội].” Kịch bản đã không diễn ra theo cách mà tổng thống và các cố vấn của ông
hy vọng. Theo Wolfgang Lehman, phó Đại sứ Martin tại Sài Gòn, các thành viên
phái đoàn “không nhất trí với chính sách của chính quyền.” Mặc dù lưu ý rằng “một
số thành viên của phái đoàn . . . có quan điểm cân bằng hơn nhiều,” bao gồm Nghị
sĩ John Flynt của Georgia và Thượng nghị sĩ Dewey Bartlett của Oklahoma, Lehman
cảm nhận rằng những người khác, đặc biệt là Bella Abzug của New York và Donald
Frazier của Minnesota, rõ ràng là thiên vị. Khi đến Sài Gòn vào ngày 26 tháng 2, phái đoàn đã gặp Đại sứ Martin và
nhân viên của ông.Theo nhà phân tích
CIA Frank Snepp tại Sài Gòn, phái đoàn ngay lập tức khoác lấy mối quan hệ đối đầu
và “nghi ngờ” đối với Martin, “thù địch” với nhân viên của ông ta và “quyết tâm
dựa vào nhân viên đại sứ quán càng ít càng tốt” để nghe báo cáo, lấy thông tin
hoặc tư vấn. Trong một vòng họp, thảo luận và đi thực địa quay cuồng, các thành
viên phái đoàn nhanh chóng hình thành quan điểm tiêu cực về Thiệu, chính quyền
của ông và toàn bộ tình hình ở miền Nam. Họ đặc biệt quan ngại về việc bỏ tù
các nhà báo và đối thủ chính trị cũng như tình hình bất ổn dân sự nhắm vào chế
độ Thiệu. Khi các đại biểu gặp tổng thống miền Nam, ông đã trực tiếp đối đầu với
họ, nói rằng: Trong hai thập kỷ qua, người dân miền Nam đã được năm tổng thống Hoa Kỳ
thuộc cả hai đảng liên tục nói với họ rằng Hoa Kỳ quyết tâm cung cấp cho họ sự
hỗ trợ đầy đủ miễn là họ sẵn sàng chống lại sự xâm lược của Cộng sản để bảo vệ
tự do của mình. Cam kết long trọng này đã được gia hạn vào thời điểm ký kết Hiệp
định Paris. Vấn đề bây giờ chỉ còn là một câu hỏi đơn giản: liệu cam kết của
Hoa Kỳ có giá trị gì không?Lời nói của
Hoa Kỳ có đáng tin không? Đó là thông điệp mà tôi muốn các bạn chuyển đến Quốc
hội Hoa Kỳ khóa 94. Hầu hết các thành viên của phái đoàn đều không mấy ấn tượng với thái độ của
Thiệu. Tại bữa tiệc tối sau bài phát biểu của ông, họ đã chỉ trích ông bằng những
mối quan ngại và luận điểm đến mức Đại sứ Martin sau đó đã phải xin lỗi vì những
gì mà Tướng Cao Văn Viên mô tả là hành vi “thô lỗ và khinh thường” của họ. Thay
vì thuyết phục các nhà lập pháp chấp thuận viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, như Tổng
thống Ford đã hy vọng, chuyến đi dường như lại có tác dụng hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, vào ngày cuối cùng của chuyến thăm, phái đoàn đã gặp đại diện
của Bắc Việt và Chính quyền Cách mạng Lâm thời của Nhóm quân sự chung tại Trại
Davis ở Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.Với hy vọng thảo luận về tù binh chiến tranh Mỹ và việc hồi hương hài cốt
của quân nhân Hoa Kỳ, phái đoàn đã phải chịu đựng lắng nghe một bài diễn thuyết
tuyên truyền của Cộng sản từ thiếu tướng quân đội Bắc Việt Hoàng Anh Tuấn, đại
diện cấp cao của CQCMLT, ông ta đã từ chối thảo luận về vấn đề tù binh chiến
tranh ngoài các tuyên bố đã chuẩn bị sẵn Sau một cuộc trao đổi căng thẳng với Đại
biểu Flynt, Tuấn tuyên bố cuộc họp đã kết thúc và bỏ ra ngoài. Hành vi của những
người Cộng sản được cho là đã thay đổi một số suy nghĩ về bản chất của cuộc
xung đột ở miền Nam. Khi phái đoàn trở về Washington để gặp tổng thống, tất cả
mọi người trừ Bella Abzug đều ủng hộ việc tăng cường viện trợ quân sự và nhân đạo.
Tuy nhiên, Đại biểu McCloskey đã đưa ra báo cáo của riêng mình kết luận rằng Bắc
Việt “sẽ đánh bại miền Nam trong vòng ba năm” bất kể Hoa Kỳ sẽ làm gì liên quan
đến viện trợ quân sự bổ sung. Một tuần sau khi phái đoàn quốc hội trở về, phe
Dân chủ tại cả Hạ viện và Thượng viện đã bỏ phiếu phản đối bất kỳ viện trợ nào
cho miền Nam và Campuchia. Nếu chuyến thăm của quốc hội không mang lại kết quả như mong muốn của tổng
thống Mỹ, thì nó có tác động thậm chí còn tệ hơn đối với Thiệu và các tướng
lĩnh của ông, họ giờ đã đi đến kết luận rằng mình sắp bị Hoa Kỳ bỏ rơi. Tướng
Viên sau này đã viết: Nhìn chung, những vị khách rời đi [từ phái đoàn quốc hội] đã để lại một cảm
giác bi quan. Bầu không khí tràn ngập tin đồn và suy đoán, tất cả đều có hại
cho sự nghiệp quốc gia. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi bị buộc phải tin rằng, chính phủ
của chúng tôi bị coi là tham nhũng không thể cứu vãn, chuyên chế và áp bức.
Chán nản và bối rối vì những khó khăn trong nước, về chính trị và kinh tế, Hoa
Kỳ không còn ở vị thế để đóng góp cho nỗ lực chiến tranh. Viện trợ không những
không có cơ hội tăng lên;mà ngược lại sẽ
bị cắt giảm thêm vì sự chú ý của người Mỹ đã chuyển sang Trung Đông. Tướng Viên kết luận rằng khi phái đoàn quốc hội Mỹ rời Sài Gòn, Thiệu
không còn hy vọng gì vào khoản viện trợ bổ sung 300 triệu đô la đã được yêu cầu.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Tiến Hưng, cựu bộ trưởng kế hoạch và phát triển và là một
trong những cố vấn thân cận nhất của Thiệu, tổng thống miền Nam, bất chấp mọi dấu
hiệu trái ngược, vẫn tin rằng cho đến cuối cùng, Hoa Kỳ sẽ làm gì đó để ngăn chặn
sự sụp đổ của miền Nam. Hưng đã viết sau chiến tranh: “Để những người Cộng sản
đạt được chiến thắng quân sự trước miền Nam sẽ gây tổn hại quá lớn đến uy tín của
Hoa Kỳ. Toàn bộ quá trình rút quân của Hoa Kỳ đã được thiết kế để bảo vệ danh dự
của Hoa Kỳ. Chúng ta không thể hiểu được rằng Ford và Kissinger sẽ cho phép Hoa
Kỳ bị sỉ nhục vì sự thảm bại của chính chúng ta.” Thực tế là Quốc hội sẽ không
cho phép Ford và Kissinger làm bất cứ điều gì để ngăn chặn chiến thắng của Bắc
Việt. Khi phái đoàn quốc hội rời Sài Gòn, họ mang theo bản sao báo cáo tình báo
mới nhất của DAO, trong đó cho thấy rõ ràng rằng Bắc Việt đã ở vị thế có thể mở
một cuộc tấn công lớn. Báo cáo cho biết Bắc Việt đã tăng lực lượng dự bị chiến
lược từ hai sư đoàn lên bảy sư đoàn, do đó tạo thêm hơn 70.000 quân sẵn sàng
tham gia vào miền Nam để tăng cường cho 200.000 quân chiến đấu và 100.000 quân
hỗ trợ đã có ở đó. Vào thời điểm này, theo báo cáo, quân Bắc Việt đã có 17 sư
đoàn ở miền Nam, được hỗ trợ bởi 500 xe tăng và 500 khẩu pháo. Ngoài ra, họ còn
có hơn 200 vũ khí phòng không các cỡ nòng khác nhau, bao gồm cả tên lửa đất đối
không. Những con số này không bao gồm 40.000 quân Bắc Việt hoạt động bên trong
Campuchia hoặc 50.000 quân hỗ trợ ở Lào. Dự đoán một cuộc tấn công lớn sắp
xảy ra ở nửa phần phía bắc miền Nam, báo cáo kết luận rằng “chiến dịch dự kiến
sẽ diễn ra trên toàn quốc và một số chỉ số cho thấy sự ra đời của các sư đoàn
dự bị chiến lược từ Bắc Việt”.
Nhận xét
Đăng nhận xét