BỎ RƠI VIỆT NAM:-52-THÁI ĐỘ CỦA HOA KỲ

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
52-THÁI ĐỘ CỦA HOA KỲ
Khi các sự kiện năm 1974 diễn ra, đường lối chính thức của chính quyền Nixon tại Hoa Kỳ về miền Nam là “lạc quan không thuyên giảm”. Mặc dù lực lượng QĐVNCH đã tự xoay sở khá tốt vào đầu năm, tình hình nhanh chóng thay đổi, phủ nhận sự lạc quan của chính quyền khi thời gian diễn tiến. Vào thời điểm này, Nixon gần như hoàn toàn bị cuốn vào vụ bê bối Watergate, nhưng những người phát ngôn khác của chính quyền vẫn tiếp tục ca ngợi những đức tính của QLVNCH, ngay cả khi họ bắt đầu chùn bước trên chiến trường. Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger đã báo cáo rằng “Các lực lượng vũ trang của miền Nam đang thể hiện một thành tích tuyệt vời khi có những đợt bùng phát các cuộc xung đột thù địch. . . . Đối với nhiều người đã từng quan sát quân đội miền Nam vào sáu hoặc bảy năm trước, thành tích mà họ đang thể hiện hiện nay thật ấn tượng.” Henry Kissinger đã lặp lại những tình cảm này trong giải trình trước Quốc hội, nói rằng sức mạnh quân sự của Sài Gòn đủ mạnh để khiến họ thất bại “không phải là một nhiệm vụ dễ dàng cho Hà Nội.” Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Robert Ingersoll tuyên bố, “miền Nam mạnh mẽ về mặt quân sự và chính trị hơn bao giờ hết”.
 
Tính lạc quan hình thức, đặc biệt là khi tình hình bắt đầu chuyển hướng bất lợi cho miền Nam, rõ ràng là được dàn dựng để tìm kiếm quỹ từ một Quốc hội đã mất hứng thú với cuộc chiến ở Việt Nam và chỉ muốn nó biến mất. Các quan chức của Chính quyền hy vọng rằng bằng cách đề cao miền Nam, họ có thể biện minh cho việc yêu cầu tiếp tục viện trợ “chỉ cần vài năm nữa” cho đến khi Sài Gòn cuối cùng mất hút qua ngã rẽ lịch sử.
 
Có lẽ người ủng hộ miền Nam mạnh mẽ nhất là Đại sứ Graham Martin. Khi làm chứng trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào mùa hè năm 1974, ông đã vẽ nên một bức tranh tươi sáng về chính phủ của Thiệu, báo cáo rằng “về mặt chính trị, chính phủ miền Nam mạnh hơn bao giờ hết”. Tuy nhiên, hầu hết những người trong Quốc hội không tin vào lời quảng cáo của ông. Sau đó, nhiều người trong Quốc hội đi đến kết luận rằng Martin cố tình bóp méo sự thật về điểm mạnh và điểm yếu của chính quyền Sài Gòn và lực lượng vũ trang miền Nam. Sau khi so sánh các báo cáo từ các đại diện Hoa Kỳ ở các tỉnh với các báo cáo được chuyển đến Washington, các nhà điều tra của Thượng viện đã tuyên bố vào năm 1974 rằng “thông tin quan trọng được gửi từ thực địa đến Sài Gòn đôi khi bị thay đổi và… đôi khi thông tin quan trọng bị giữ lại hoàn toàn”.  Mặc dù Martin kịch liệt phủ nhận những cáo buộc này, nhưng thiệt hại đã xảy ra;  cả ông và chính quyền Nixon vốn đã choáng váng vì vụ bê bối Watergate, nhanh chóng mất đi mọi uy tín còn lại liên quan đến khả năng tồn tại của miền Nam, đặc biệt là trước những khó khăn mà QLVNCH hiện đang gặp phải trên chiến trường.
 
Tổng thống Nixon đã đệ trình yêu cầu viện trợ bổ sung lên Quốc hội cho ngân sách năm tài chính 1974 để trang trải chi phí hoạt động tăng thêm và thay thế vật tư chiến tranh bị mất và hư hỏng, cộng thêm 266 triệu đô la nữa để bù đắp cho khoản thâm hụt phát sinh trong năm trước. Vào ngày 18 tháng 3, Ủy ban Dịch vụ Vũ trang của Hạ viện đã triệu tập phiên điều trần về yêu cầu của Nixon. Đô đốc Thomas Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, và William P. Clements, phó bộ trưởng quốc phòng, đã xuất hiện trước ủy ban để trình bày lập luận của chính quyền về việc tăng viện trợ cho miền Nam, yêu cầu Hạ viện nâng mức trần viện trợ quân sự cho Sài Gòn và chấp thuận yêu cầu bổ sung. Họ cảnh báo rằng nếu không có thêm viện trợ, nỗ lực chiến tranh của miền Nam sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng, có thể không thể sửa chữa được.
 
Vào ngày 19 tháng 3, Ủy ban Dịch vụ Vũ trang Hạ viện đã bắt đầu thảo luận về yêu cầu bổ sung.  Thượng nghị sĩ Edward M. Kennedy (Dân chủ-MA) và James B. Pearson (Cộng hòa-KS) đã ra sức xóa hoàn toàn phần yêu cầu bổ sung dành cho Sài Gòn. Thượng nghị sĩ Alan Cranston (Dân chủ-CA) khuyến khích Ủy ban “loại bỏ dần, càng nhanh càng tốt, các khoản tiền quân sự trong tương lai cho chính quyền Thiệu.” Vào ngày 6 tháng 5, Thượng viện đã bác bỏ việc xóa bỏ mức trần đối với viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Tuy nhiên, Thượng viện đã chấp thuận việc chi thêm 266 triệu đô la đã được phát hiện do điều chỉnh sổ sách kế toán. Thượng nghị sĩ Kennedy đã ngay lập tức đệ trình một sửa đổi để chặn việc chi các khoản tiền này. Sửa đổi Kennedy đã được thông qua với số phiếu 43 thuận và 38 chống. Khi ủy ban hội nghị Hạ viện-Thượng viện họp để giải quyết những bất đồng về dự luật, mức trần phân bổ được phép giữ nguyên và chính quyền bị cấm sử dụng số tiền bổ sung.  Tổng thống mặc dù không đồng tình với kết quả của các cuộc thảo luận về ngân sách, đã ký dự luật vào ngày 8 tháng 6. Người miền Nam rất tức giận trước diễn biến này nhưng tình hình ngân sách sẽ trở nên tồi tệ hơn nhiều.
 
Tổng thống Nixon đã đệ trình yêu cầu viện trợ nước ngoài của mình cho năm tài chính (FY) 1975 (1 tháng 7 năm 1974–30 tháng 6 năm 1975) lên Quốc hội vào ngày 24 tháng 4 năm 1974. Tổng gói viện trợ lên tới 5,18 tỷ đô la, trong đó 1,45 tỷ đô la được dành viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Ngoài ra, Lầu Năm Góc yêu cầu cấp 150 triệu đô la  trong quỹ đã được phân bổ  cho miền Nam.
 
Ủy ban Đối ngoại Hạ viện đã tranh luận về yêu cầu của chính quyền trong suốt tháng 6 và tháng 7.  Trong nỗ lực biện minh cho ngân sách, chính quyền đã trình bày những phát hiện của một nghiên cứu chung giữa Hoa Kỳ và miền Nam khẳng định rằng ngay cả với toàn bộ 1,45 tỷ đô la được yêu cầu trong ngân sách quốc phòng, khả năng của Sài Gòn trong việc chống lại một cuộc tấn công quy mô của Cộng sản vẫn còn đáng ngờ. Ngoài ra, báo cáo khẳng định rằng bất kỳ khoản viện trợ nào thấp hơn chương trình năm 1974 là 1,126 tỷ đô la “sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả năng lực và tinh thần” của lực lượng vũ trang miền Nam, khi đó “sẽ không còn khả năng để bảo vệ toàn bộ lãnh thổ dưới sự kiểm soát của mình ngay cả khi giao tranh vẫn tiếp tục ở mức độ tương tự” như năm trước. Trích dẫn báo cáo chung trong lời khai trước ủy ban, Henry Kissinger đã thúc giục Quốc hội phê duyệt dự luật viện trợ quân sự trị giá 1,5 tỷ đô la, nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ đạo lý đối với miền Nam và cảnh báo rằng việc không thực hiện nghĩa vụ đó sẽ có “tác động ăn mòn đến lợi ích của chúng ta bên ngoài Đông Dương”.
 
Trong các cuộc thảo luận của ủy ban, Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger đã được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu lượng đạn dược cung cấp cho miền Nam bị cắt giảm mạnh do cắt giảm ngân sách; ông trả lời: “Khả năng tồn tại của chính phủ [miền Nam] sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như bạn nhớ lại, vào thời điểm cắt giảm hỗ trợ trên không chiến thuật vào mùa hè năm ngoái, đã có một số câu hỏi liệu chính phủ có thể tồn tại hay không. Chính phủ đã tự vực dậy, nhưng chính phủ phụ thuộc vào lực lượng của chính mình và đạn dược được cung cấp cho các lực lượng này. Nếu không có những loại đạn dược như vậy, thật khó để thấy chính phủ có thể tồn tại được.”
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến