Khi các sự kiện năm 1974 diễn ra, đường lối chính thức của chính quyền
Nixon tại Hoa Kỳ về miền Nam là “lạc quan không thuyên giảm”. Mặc dù lực lượng
QĐVNCH đã tự xoay sở khá tốt vào đầu năm, tình hình nhanh chóng thay đổi, phủ
nhận sự lạc quan của chính quyền khi thời gian diễn tiến. Vào thời điểm này,
Nixon gần như hoàn toàn bị cuốn vào vụ bê bối Watergate, nhưng những người phát
ngôn khác của chính quyền vẫn tiếp tục ca ngợi những đức tính của QLVNCH, ngay
cả khi họ bắt đầu chùn bước trên chiến trường. Bộ trưởng Quốc phòng James
Schlesinger đã báo cáo rằng “Các lực lượng vũ trang của miền Nam đang thể hiện
một thành tích tuyệt vời khi có những đợt bùng phát các cuộc xung đột thù địch.
. . . Đối với nhiều người đã từng quan sát quân đội miền Nam vào sáu hoặc bảy
năm trước, thành tích mà họ đang thể hiện hiện nay thật ấn tượng.” Henry
Kissinger đã lặp lại những tình cảm này trong giải trình trước Quốc hội, nói rằng
sức mạnh quân sự của Sài Gòn đủ mạnh để khiến họ thất bại “không phải là một
nhiệm vụ dễ dàng cho Hà Nội.” Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Robert Ingersoll
tuyên bố, “miền Nam mạnh mẽ về mặt quân sự và chính trị hơn bao giờ hết”. Tính lạc quan hình thức, đặc biệt là khi tình hình bắt đầu chuyển hướng bất
lợi cho miền Nam, rõ ràng là được dàn dựng để tìm kiếm quỹ từ một Quốc hội đã mất
hứng thú với cuộc chiến ở Việt Nam và chỉ muốn nó biến mất. Các quan chức của
Chính quyền hy vọng rằng bằng cách đề cao miền Nam, họ có thể biện minh cho việc
yêu cầu tiếp tục viện trợ “chỉ cần vài năm nữa” cho đến khi Sài Gòn cuối cùng mất
hút qua ngã rẽ lịch sử. Có lẽ người ủng hộ miền Nam mạnh mẽ nhất là Đại sứ Graham Martin. Khi làm
chứng trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào mùa hè năm 1974, ông đã vẽ nên một
bức tranh tươi sáng về chính phủ của Thiệu, báo cáo rằng “về mặt chính trị,
chính phủ miền Nam mạnh hơn bao giờ hết”. Tuy nhiên, hầu hết những người trong
Quốc hội không tin vào lời quảng cáo của ông. Sau đó, nhiều người trong Quốc hội
đi đến kết luận rằng Martin cố tình bóp méo sự thật về điểm mạnh và điểm yếu của
chính quyền Sài Gòn và lực lượng vũ trang miền Nam. Sau khi so sánh các báo cáo
từ các đại diện Hoa Kỳ ở các tỉnh với các báo cáo được chuyển đến Washington,
các nhà điều tra của Thượng viện đã tuyên bố vào năm 1974 rằng “thông tin quan
trọng được gửi từ thực địa đến Sài Gòn đôi khi bị thay đổi và… đôi khi thông
tin quan trọng bị giữ lại hoàn toàn”.Mặc
dù Martin kịch liệt phủ nhận những cáo buộc này, nhưng thiệt hại đã xảy
ra;cả ông và chính quyền Nixon vốn đã
choáng váng vì vụ bê bối Watergate, nhanh chóng mất đi mọi uy tín còn lại liên
quan đến khả năng tồn tại của miền Nam, đặc biệt là trước những khó khăn mà
QLVNCH hiện đang gặp phải trên chiến trường. Tổng thống Nixon đã đệ trình yêu cầu viện trợ bổ sung lên Quốc hội cho
ngân sách năm tài chính 1974 để trang trải chi phí hoạt động tăng thêm và thay
thế vật tư chiến tranh bị mất và hư hỏng, cộng thêm 266 triệu đô la nữa để bù đắp
cho khoản thâm hụt phát sinh trong năm trước. Vào ngày 18 tháng 3, Ủy ban Dịch
vụ Vũ trang của Hạ viện đã triệu tập phiên điều trần về yêu cầu của Nixon. Đô đốc
Thomas Moorer, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, và William P.
Clements, phó bộ trưởng quốc phòng, đã xuất hiện trước ủy ban để trình bày lập
luận của chính quyền về việc tăng viện trợ cho miền Nam, yêu cầu Hạ viện nâng mức
trần viện trợ quân sự cho Sài Gòn và chấp thuận yêu cầu bổ sung. Họ cảnh báo rằng
nếu không có thêm viện trợ, nỗ lực chiến tranh của miền Nam sẽ bị thiệt hại
nghiêm trọng, có thể không thể sửa chữa được. Vào ngày 19 tháng 3, Ủy ban Dịch vụ Vũ trang Hạ viện đã bắt đầu thảo luận
về yêu cầu bổ sung.Thượng nghị sĩ
Edward M. Kennedy (Dân chủ-MA) và James B. Pearson (Cộng hòa-KS) đã ra sức xóa
hoàn toàn phần yêu cầu bổ sung dành cho Sài Gòn. Thượng nghị sĩ Alan Cranston
(Dân chủ-CA) khuyến khích Ủy ban “loại bỏ dần, càng nhanh càng tốt, các khoản
tiền quân sự trong tương lai cho chính quyền Thiệu.” Vào ngày 6 tháng 5, Thượng
viện đã bác bỏ việc xóa bỏ mức trần đối với viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Tuy
nhiên, Thượng viện đã chấp thuận việc chi thêm 266 triệu đô la đã được phát hiện
do điều chỉnh sổ sách kế toán. Thượng nghị sĩ Kennedy đã ngay lập tức đệ trình
một sửa đổi để chặn việc chi các khoản tiền này. Sửa đổi Kennedy đã được thông
qua với số phiếu 43 thuận và 38 chống. Khi ủy ban hội nghị Hạ viện-Thượng viện
họp để giải quyết những bất đồng về dự luật, mức trần phân bổ được phép giữ
nguyên và chính quyền bị cấm sử dụng số tiền bổ sung.Tổng thống mặc dù không đồng tình với kết quả
của các cuộc thảo luận về ngân sách, đã ký dự luật vào ngày 8 tháng 6. Người miền
Nam rất tức giận trước diễn biến này nhưng tình hình ngân sách sẽ trở nên tồi tệ
hơn nhiều. Tổng thống Nixon đã đệ trình yêu cầu viện trợ nước ngoài của mình cho năm
tài chính (FY) 1975 (1 tháng 7 năm 1974–30 tháng 6 năm 1975) lên Quốc hội vào
ngày 24 tháng 4 năm 1974. Tổng gói viện trợ lên tới 5,18 tỷ đô la, trong đó
1,45 tỷ đô la được dành viện trợ quân sự cho Sài Gòn. Ngoài ra, Lầu Năm Góc yêu
cầu cấp 150 triệu đô latrong quỹ đã được
phân bổcho miền Nam. Ủy ban Đối ngoại Hạ viện đã tranh luận về yêu cầu của chính quyền trong
suốt tháng 6 và tháng 7.Trong nỗ lực biện
minh cho ngân sách, chính quyền đã trình bày những phát hiện của một nghiên cứu
chung giữa Hoa Kỳ và miền Nam khẳng định rằng ngay cả với toàn bộ 1,45 tỷ đô la
được yêu cầu trong ngân sách quốc phòng, khả năng của Sài Gòn trong việc chống
lại một cuộc tấn công quy mô của Cộng sản vẫn còn đáng ngờ. Ngoài ra, báo cáo
khẳng định rằng bất kỳ khoản viện trợ nào thấp hơn chương trình năm 1974 là 1,126
tỷ đô la “sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả năng lực và tinh thần” của lực lượng
vũ trang miền Nam, khi đó “sẽ không còn khả năng để bảo vệ toàn bộ lãnh thổ dưới
sự kiểm soát của mình ngay cả khi giao tranh vẫn tiếp tục ở mức độ tương tự”
như năm trước. Trích dẫn báo cáo chung trong lời khai trước ủy ban, Henry
Kissinger đã thúc giục Quốc hội phê duyệt dự luật viện trợ quân sự trị giá 1,5
tỷ đô la, nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ có nghĩa vụ đạo lý đối với miền Nam và cảnh báo
rằng việc không thực hiện nghĩa vụ đó sẽ có “tác động ăn mòn đến lợi ích của
chúng ta bên ngoài Đông Dương”. Trong các cuộc thảo luận của ủy ban, Bộ trưởng Quốc phòng James
Schlesinger đã được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu lượng đạn dược cung cấp cho miền
Nam bị cắt giảm mạnh do cắt giảm ngân sách; ông trả lời: “Khả năng tồn tại của
chính phủ [miền Nam] sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Như bạn nhớ lại, vào thời điểm
cắt giảm hỗ trợ trên không chiến thuật vào mùa hè năm ngoái, đã có một số câu hỏi
liệu chính phủ có thể tồn tại hay không. Chính phủ đã tự vực dậy, nhưng chính
phủ phụ thuộc vào lực lượng của chính mình và đạn dược được cung cấp cho các lực
lượng này. Nếu không có những loại đạn dược như vậy, thật khó để thấy chính phủ
có thể tồn tại được.”
Nhận xét
Đăng nhận xét