BỎ RƠI VIỆT NAM:
50-CÁC “CUỘC ĐỘT KÍCH CHIẾN LƯỢC”
Đánh giá của Herrington là đúng. Chính trong bối cảnh miền Nam bất ổn, Bắc
Việt đã quyết định đưa “chiến tranh trong hòa bình” lên một tầm cao mới. Khi Hà
Nội tăng cường hành động quân sự vào tháng 10 năm 1973, các nhà lãnh đạo Bắc Việt
đã theo dõi chặt chẽ phản ứng của Hoa Kỳ. Không chỉ người Mỹ không phản ứng mà
Quốc hội còn thông qua Đạo luật Quyền hạn Chiến tranh vào tháng 11, hạn chế hơn
nữa các lựa chọn quân sự của tổng thống ở Đông Nam Á. Luật mới, cùng với việc
thiếu phản ứng quân sự của Hoa Kỳ, đã khuyến khích phe diều hâu trong Bộ Chính
trị Hà Nội, kêu gọi tiếp tục leo thang mạnh mẽ trong cuộc chiến. Tại Hội nghị toàn thể lần thứ 22 của đảng vào
tháng 12 năm 1973, phe ôn hòa ở Hà Nội một lần nữa lập luận thành công rằng một
cuộc tổng tấn công phải được hoãn lại cho đến khi công cuộc tái thiết miền Bắc
hoàn tất. Tuy nhiên, những người tham dự đã quyết định tăng cường đối đầu quân
sự ở miền Nam lên một mức, mặc dù chưa đạt đến mức tổng tấn công nhưng sẽ gây
áp lực lên Sài Gòn. Theo đó, Trung ương cục miền Nam đã ban hành Nghị quyết 12
vào cuối tháng 12 năm 1973 hoặc đầu tháng 1 năm 1974. Nghị quyết, khẳng định rằng
các lực lượng Cộng sản ở miền Nam đang ở vị thế quân sự mạnh hơn so với bất kỳ
thời điểm nào kể từ năm 1954, giao nhiệm vụ cho các lực lượng đó tấn công “từng
điểm, giành chiến thắng từng phần và tiến tới chiến thắng cuối cùng”. Lệnh này
kêu gọi các hoạt động vũ trang kết hợp không chỉ chống lại các tiền đồn biệt lập
mà còn chống lại các mục tiêu quan trọng hơn như các thị trấn, sở chỉ huy tiểu
khu, căn cứ hậu phương, và sở chỉ huy sư đoàn.
Bằng cách tăng nhịp độ chiến đấu, Bắc Việt hy vọng sẽ giành lại thế chủ
động về quân sự ở miền Nam.
Đánh giá của Hội nghị toàn thể lần thứ 22 về sức mạnh ngày càng tăng của
lực lượng Bắc Việt ở miền Nam là có cơ sở. Đến đầu năm 1974, Bắc Việt đã chuẩn
bị tốt để tăng phạm vi và tốc độ hoạt động chống lại QLVNCH. Trong khi sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ cho miền Nam giảm dần, Bắc Việt vẫn tiếp tục nhận được vũ khí và đạn
dược từ cả Liên Xô và Trung Quốc. (Một
báo cáo cho biết miền Bắc đã nhận được khoảng gấp đôi số lượng vũ khí mà người
Mỹ cung cấp cho miền Nam. Tình báo QĐVNCH ước tính rằng viện trợ của Nga và
Trung Quốc cho Bắc Việt vào năm 1974 lên tới 1,7 tỷ đô la, so với 700 triệu đô
la vào năm 1973. Clark Dougan và David Fulghum khẳng định rằng mặc dù Liên Xô
và Trung Quốc đã giảm viện trợ quân sự cho Hà Nội vào giữa năm 1973, Liên Xô, tức
giận với việc Hoa Kỳ không cấp cho họ quy chế tối huệ quốc, đã tăng viện trợ
quân sự cho Bắc Việt vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên, Gareth
Porter đã phản đối những con số này, trích dẫn các nguồn tin của CIA cho biết
viện trợ cho Bắc Việt từ các nhà tài trợ Cộng sản của họ đã giảm vào cả năm
1973 và 1974. Rõ ràng là số lượng viện trợ thực tế là chủ đề gây tranh cãi,
nhưng khối lượng lớn thiết bị và vũ khí
mới mà Bắc Việt sử dụng trong cuộc tấn công cuối cùng vào năm 1975 là ấn tượng
nhất, cho thấy ít hoặc không có tình trạng thiếu hụt.
Bất kể Hà Nội nhận được bao nhiêu viện trợ, Bắc Việt đã tận dụng tốt thời
gian sau lệnh ngừng bắn để bổ sung và tăng cường lực lượng của họ ở miền Nam,
di chuyển một lượng lớn quân đội và vật tư xuống Đường mòn Hồ Chí Minh đã được
cải thiện rất nhiều. Tướng Hinh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa sau đó ước tính
rằng Bắc Việt đã đưa hơn 200.000 người vào Miền Nam vào năm 1973 sau khi lệnh
ngừng bắn có hiệu lực. Số lượng thiết bị mới di chuyển về phía nam là rất lớn:
Số lượng xe tăng của Bắc Việt tăng lên hơn 650 chiếc, so với con số 100 chiếc
trong lệnh ngừng bắn. Ngoài ra, Bắc Việt có hơn 400 khẩu pháo, bao gồm một nguồn
cung cấp mới súng 122 mm và 130 mm vượt xa pháo binh của Quân đội Việt Nam Cộng
hòa. Đến cuối năm 1973, Bắc Việt có 20
trung đoàn phòng không ở miền Nam, và hầu hết đều được trang bị vũ khí phòng
không và radar tiên tiến; một số đơn vị phòng không được trang bị tên lửa phòng
không SA-2 gắn trên bệ phóng di động. Ngoài vũ khí và thiết bị mới, Bắc Việt đã
gửi một lượng lớn lương thực, phụ tùng và đạn dược cho các đơn vị của họ ở miền
Nam. Chỉ riêng ở Quân khu I, ước tính có hơn 10.000 tấn vật tư và đạn dược đã
được thâm nhập vào mỗi tháng của năm 1974.
Để xử lý khối lượng quân lính và thiết bị tăng lên di chuyển về phía nam,
Bắc Việt bắt đầu xây dựng một tuyến đường tiếp tế mới, được gọi là Hành lang
Trường Sơn, hay Hành lang 613. Không giống như Đường mòn Hồ Chí Minh, chạy qua
Lào và Campuchia, tuyến đường mới chạy bên trong miền Nam, từ phía bắc DMZ đến
Lộc Ninh, chỉ cách Sài Gòn một trăm km. Hoàn thành tuyến đường này mất hai năm
và sự phục vụ của 30.000 quân lính và hàng loạt thanh niên nam nữ tình nguyện từ
đoàn Thanh niên Tiền phong Cộng sản. Hành lang Trường Sơn đóng vai trò quan trọng
trong các hoạt động của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào năm 1975.
Trong khi Bắc Việt tiếp tục tăng cường quân đội và vật tư ở miền Nam, họ
cũng đã tổ chức lại đáng kể lực lượng của mình.
Theo tướng Văn Tiến Dũng, “Để tiến hành những trận đánh tiêu diệt quy mô
lớn và bảo vệ vững chắc những vùng mới giải phóng, không nên chỉ đưa ra những
sư đoàn độc lập hoặc hợp nhất”. Do đó, các tiểu đoàn vùng và chủ lực riêng biệt
được thành lập thành trung đoàn, và các trung đoàn riêng biệt được thành lập
thành sư đoàn. Sau đó vào năm 1974, bộ tư lệnh cấp cao của Bắc Việt đã thành lập
một số sở chỉ huy quân đoàn để chỉ huy số lượng sư đoàn chủ lực ngày càng tăng.
Quân đoàn I được thành lập từ các sư đoàn xung quanh Hà Nội vào tháng 5 năm
1974. Quân đoàn II, được thành lập vào tháng 7 năm 1974, đảm nhiệm chỉ huy các
sư đoàn của Bắc Việt xung quanh Khu Phi quân sự và hai tỉnh phía bắc của miền
Nam. Quân đoàn IV được thành lập ở Tây Nguyên và Campuchia, và Quân đoàn III được
thành lập sau đó ở Tây Nguyên. Việc thành lập sở chỉ huy quân đoàn đã báo hiệu
các hoạt động vũ trang hợp nhất gia tăng ở quy mô rộng hơn nhiều so với trước
đây.
Quân Ủy Trung ương Bắc Việt họp vào tháng 3 năm 1974 và kết luận rằng
“Cách mạng Việt Nam có thể phát triển qua nhiều giai đoạn chuyển tiếp, và chỉ
có thể đạt được thành công bằng bạo lực với sự hỗ trợ của các lực lượng chính
trị và quân sự; nếu chiến tranh tiếp tục trên quy mô lớn, một cuộc chiến tranh
cách mạng sẽ được tiến hành để giành chiến thắng hoàn toàn”. Do đó, bộ tư lệnh
quân đội đã ra lệnh cho các sở chỉ huy cấp dưới của mình ở miền Nam bắt đầu những
gì được mô tả là “các cuộc đột kích chiến lược” chống lại các lực lượng miền
Nam. Các hoạt động này được thiết kế để giành lại thế chủ động trên chiến trường,
giành quyền kiểm soát thêm lãnh thổ và con người, làm suy yếu lực lượng QLVNCH,
hạ thấp tinh thần của miền Nam thông qua hành động xâm lược và làm tiêu hao, và
“rèn giũa khả năng chiến đấu” của quân đội và cán bộ Cộng sản để chuẩn bị cho
cuộc tổng tấn công trong tương lai. Trong khi thử nghiệm sức đề kháng của lực
lượng miền Nam và ý chí tiếp tục chiến đấu của họ, các hoạt động được lên kế hoạch
để duy trì ở mức ngay dưới ngưỡng có thể gây ra phản ứng của Hoa Kỳ.
Các mục tiêu cụ thể của các hoạt động khác nhau tùy theo khu vực. Các lực
lượng ở Đồng bằng sông Cửu Long sẽ cố gắng giành đất đai và sự ủng hộ của người
dân. Tuy nhiên, các lực lượng ở khu vực xung quanh Sài Gòn sẽ di chuyển để cắt
đứt thủ đô khỏi Đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam, khỏi biển ở phía đông nam
và từ miền Trung Nam Việt ra phía bắc.
Ngoài ra, Bắc Việt hy vọng sẽ loại bỏ các tiền đồn của QĐVNCH, ngăn chặn các
tuyến liên lạc và các con đường tiếp cận của Cộng sản đối với Sài Gòn, cả hai đều
sẽ được sử dụng trong cuộc tổng tấn công, bất cứ khi nào. Tại Quân khu I, Bắc
Việt muốn cô lập kinh đô cũ là Huế, đẩy lực lượng miền Nam ra khỏi các thành phố
trọng điểm và loại bỏ các tiền đồn còn lại dọc theo hành lang hậu cần mới.
Trong khi đó, lực lượng Cộng sản ở Quân khu II cũng muốn bảo vệ phần hành
lang hậu cần và các tuyến đường vào miền trung của miền Nam, đồng thời cô lập
các thành phố Kontum và Pleiku.
Nhận xét
Đăng nhận xét