BỎ RƠI VIỆT NAM:
51-CUỘC TẤN CÔNG MÙA HÈ CỦA BẮC QUÂN
Trong tháng 5 năm 1974, Bắc Việt đã tấn công vào các căn cứ và tiền đồn
trên khắp các tỉnh Quảng Tín, Quảng Ngãi và Thừa Thiên ở Quân khu I. Vào ngày 4
tháng 5, các đơn vị của sư đoàn 1 và 2 của QĐNDVN đã tấn công thị trấn Tiên Phước
và làng Kỳ Trà. Đến ngày hôm sau, Kỳ Trà đã thất thủ, cũng như tất cả các tiền
đồn xung quanh Tiên Phước. Cùng lúc với các cuộc tấn công vào Tiên Phước và Kỳ
Trà, quân BV đã pháo kích và bắn tên lửa vào sở chỉ huy Sư đoàn 2 VNCH tại Chu
Lai và sân bay tại Tam Kỳ. Tiếp theo, họ đã tấn công vào thị trấn Gia Vực gần
biên giới tỉnh Quảng Ngãi-Kontum. Những trận chiến này kéo dài cho đến giữa
tháng 6, khi quân Bắc Việt rút lui qua biên giới đến nơi ẩn náu của họ ở Lào.
QLVNCH đã cố gắng bảo vệ thành công Tiên Phước, nhưng trong quá trình giao
tranh, ba tiểu đoàn của Sư đoàn 2 đã bị loại khỏi vòng chiến.
Động thái tiếp theo ở Quân khu I diễn ra vào tháng 7, khi Bắc Việt tiến
hành một cuộc tấn công mới vào Tỉnh Quảng Nam dưới sự chỉ huy của Quân đoàn III
BV mới được thành lập. Mục tiêu của cuộc tấn công này là Thung lũng Khe Le chiến
lược, nơi tiếp cận các vùng ven biển đông dân. Vào ngày 18 tháng 7, Sư đoàn 304
và 2 của QĐNDVN bắt đầu cuộc tấn công vào khu vực này bằng các đợt pháo kích và
hỏa tiễn vào trại biệt kích Nông Song và một căn cứ của QLVNCH tại Dạ Trạch, tiếp
theo là các cuộc tấn công trên bộ bằng xe tăng và bộ binh. Lực lượng phòng vệ
miền Nam tại cả hai căn cứ ban đầu đã ngăn chặn thành công, nhưng vào chiều hôm
sau, một cuộc tấn công của năm tiểu đoàn bộ binh địch đã áp đảo lực lượng cố thủ
Dạ Trạch. Ngày hôm sau, Nông Song cũng thất thủ. Khi những trận chiến này diễn ra, các pháo
binh BV đã pháo kích vào sở chỉ huy phân khu Dục Đức và căn cứ không quân tại
Đà Nẵng trong khi các lực lượng tổng cộng 11 tiểu đoàn bộ binh tấn công thêm
các tiền đồn của chính phủ và các thị trấn của quận. Cựu tư lệnh Sư đoàn 3 Quân
đội VNCH Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh sau này đã viết về những trận chiến này:
“Chiến thuật của địch rõ ràng là một mô
hình chiến tranh quy ước cơ động. Quân địch chỉ tấn công vào ban ngày và có sự
hỗ trợ của pháo binh và thiết giáp. Hỏa lực pháo binh của địch, sự gia tăng các
loại hỏa lực khác, và đặc biệt là việc sử dụng súng phòng không để hỗ trợ trực
tiếp trên bộ là những yếu tố gây ra một số lo ngại cho binh sĩ của chúng ta.
Quân địch trang bị các thiết bị mới, bộ dụng cụ sơ cứu hiện đại và khẩu phần
chiến đấu hiện đại.”
Vào cuối tháng 7, các thành phần từ ba sư đoàn Bắc Việt đã bao vây các vị
trí của QĐVNCH trên khắp các tỉnh miền đông Quảng Nam và Quảng Ngãi. Vào ngày 29 tháng 7, trung đoàn 29 BV đã tấn
công Thượng Đức, vị trí cực tây còn lại của quân đội miền Nam tại Quảng Nam.
Sau nhiều đợt pháo kích dữ dội và nhiều cuộc tấn công trên bộ, lực lượng đồn
trú VNCH đã đầu hàng vào ngày 5 tháng 8, trở thành quận lỵ đầu tiên bị mất vào
tay Cộng sản kể từ khi ngừng bắn. Đến cuối tháng 8, Sư đoàn 324 của Bắc Việt đã
chiếm được các vị trí then chốt ở vùng cao phía nam Phú Bài thuộc tỉnh Thừa
Thiên và đang đe dọa cố đô Huế. Trong tháng 8 và tháng 9, QĐNDVN đã tiến hành
các cuộc tấn công thành công trên khắp Quân khu I, chiếm được nhiều quận lỵ và
các cứ điểm của QLVNCH. Tướng Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I của miền Nam, đã phản
công và sử dụng lực lượng của mình một cách khéo léo. Tuy nhiên, QLVNCH đã bị
kéo căng quá mỏng, và Trưởng không có đủ lực lượng dự bị để ngăn chặn mọi cuộc
tấn công của Cộng sản trong khu vực.
Ngoài ra, cuộc chiến liên tục đã làm cạn kiệt nghiêm trọng nguồn cung cấp
đạn dược của quân miền Nam tại Quân khu I.
Khi các cuộc tấn công của Bắc Việt diễn ra tại Quân khu I, các lực lượng
Cộng sản khác đã tấn công vào Cao nguyên Trung phần. Ban đầu, họ tập trung vào
việc loại bỏ các tiền đồn của QLVNCH đe dọa hành lang hậu cần. Cùng lúc đó, chỉ
huy Bắc Việt đã ra lệnh cho lực lượng của mình tấn công các vị trí của QLVNCH ở
chân đồi Cao nguyên nhằm mục đích đẩy họ xuống đồng bằng ven biển để các đơn vị
mình có thể di chuyển vào các vị trí tấn công gần các thành phố ven biển lớn.
Vào tháng 4, hai trung đoàn của Sư đoàn 320 Bắc Việt đã tấn công vào Tiền
đồn 711, ngay phía đông nam của Pleiku. Lực lượng đồn trú nhỏ ở đó đã cầm cự đủ
lâu để Sư đoàn 22 VNCH đưa quân tiếp viện từ Pleiku vào trận chiến, điều này đã
xoay chuyển cục diện và buộc quân Bắc Việt phải rút lui. Các tiền đồn khác của
miền Nam trong khu vực này không được may mắn như vậy. Đến giữa năm, QĐNDVN đã chiếm được các tiền đồn
của miền Nam tại Dak Pek và Tiểu Atar, trong khi thực sự bao vây Pleime. Vào
tháng 8, Mang Buk, một tiền đồn nằm gần tuyến đường tiếp tế của Cộng sản nối
Kontum với các tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, đã rơi vào tay quân địch sau một vụ
tấn công. Giống như ở Quân đoàn I, mô hình tấn công của Bắc Việt bao gồm các cuộc
pháo kích dữ dội và các cuộc tấn công trên bộ bằng vũ khí hỗn hợp áp đảo. Không
giống như quân Sài Gòn quân BV không cho thấy bất kỳ bằng chứng nào về tình trạng
thiếu đạn dược cho pháo hạng nặng và xe tăng cũng như không ngần ngại sử dụng hết
những gì mình có. Giống như người đồng cấp của mình ở Quân đoàn I, chỉ huy Quân
đoàn II VNCH, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, không thể di chuyển quân của mình
quanh khu vực đủ nhanh để chống lại tất cả các cuộc tấn công của địch; đến
tháng 10, Chương Nghĩa, tiền đồn lớn cuối cùng của quân Sài Gòn ở phía tây tỉnh
Kontum đã thất thủ. Quân đội Bắc Việt đã
thành công trong việc đẩy quân đội Nam Việt ra khỏi chân đồi, cho phép các đơn
vị bộ đội thiết lập các vị trí trong phạm vi pháo binh của mọi thành phố lớn và
thị trấn ở khu vực trung tâm. Trong quá trình này, họ đã làm kiệt sức hai sư
đoàn VNCH bằng cách khiến họ phải chuyển quân qua lại để đáp trả các cuộc tấn
công rộng khắp của địch; ngoài việc làm kiệt sức nghiêm trọng các chỉ huy và
binh lính có kinh nghiệm, Quân đoàn III BV mới được thành lập đã thu thập được
kinh nghiệm quý báu trong việc lập kế hoạch và tiến hành một chiến dịch tấn
công lớn.
Tướng VC Trần Văn Trà, chỉ huy Mặt trận B-2, giám sát các hoạt động xung
quanh Sài Gòn. Ông muốn cô lập các tỉnh Tây Ninh và Phước Long, chặn các tuyến
đường giữa Sài Gòn và Đồng bằng sông Cửu Long, và bảo vệ lãnh thổ thuận lợi cho
các hoạt động trong tương lai. Vào tháng 4, các thành phần của Sư đoàn 7 QĐNDVN
đã tấn công vào căn cứ hỏa lực nhỏ tại Chí Linh, cách Sài Gòn 48 km về phía bắc
dọc theo Quốc lộ 14, đây là tuyến đường chính nối Sài Gòn và Phước Long. Ngay
sau đó, các lực lượng Bắc Việt khác cuối cùng đã tràn vào tiền đồn của
QĐVNCH tại Tống Lê Chân, phía tây An Lộc,
nơi đã từng chống cự kể từ khi Cộng sản lần đầu tiên bao vây vào tháng 4 năm
1972.
Trà đã ra lệnh cho Sư đoàn 5 tấn công từ Campuchia để chiếm căn cứ biệt
kích Đức Huệ ở tỉnh Hậu Nghĩa, ngay phía tây Sài Gòn. Mặc dù BV không thành công trong việc đánh bật
quân phòng thủ, họ đã nhanh chóng chiếm đóng và bảo vệ hầu hết khu vực giữa
Sông Vàm Cỏ Đông và biên giới Campuchia. Tuy nhiên, cuối cùng, Sư đoàn 25 VNCH,
được tăng cường thêm Lữ đoàn Thiết giáp 3 và một nhóm biệt động, đã phản công
và buộc quân Bắc Việt quay trở lại Campuchia. Vào tháng 5, các thành phần của
Sư đoàn 7 BV đã chiếm được ba tiền đồn VNCH trong khu vực Tam giác Sắt chiến lược,
ngay phía tây bắc Sài Gòn. Trong một hoạt động hỗ trợ được thiết kế để cô lập
Sài Gòn hơn nữa, Trà đã phát động cuộc tấn công lớn của các trung đoàn 33 và
274 hướng về Xuân Lộc, một trung tâm liên lạc chính ở Tỉnh Long Khánh, cách Sài
Gòn 37 dặm về phía đông bắc. Xuân Lộc nằm trên Đường cao tốc 1 và 2, các tuyến
đường quan trọng kết nối Sài Gòn với miền trung và bờ biển. Đến cuối tháng 5, lực
lượng Sài Gòn đã ngăn chặn được bước tiến của quân Bắc Việt vào Xuân Lộc.
Quân đội Bắc Việt tìm cách cắt đứt Sài Gòn khỏi phía tây, tây bắc và phía
đông, nhưng họ đã không giữ được bất kỳ khu vực nào trong Quân khu III mà họ
chiếm được. Tuy nhiên, họ đã thành công trong việc kéo căng quá mức lực lượng
miền Nam và gây ra thương vong nghiêm trọng cho họ. Vào đầu mùa thu, chỉ huy
Quân đoàn III, Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã thành công trong việc ngăn chặn
các cuộc tấn công xung quanh Sài Gòn, nhưng lực lượng của ông vẫn tiếp tục giao
tranh dữ dội với địch trên khắp khu vực; “những đợt tấn công của Cộng sản ở
Quân khu III đơn giản là gây ra quá nhiều thương vong khiến Quân đội Việt Nam Cộng
hòa khó thể chữa lành.”
Câu chuyện cũng không khác gì ở Đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù các trận
chiến ít kịch tính hơn so với các khu vực khác. Quân đội Bắc Việt đã tăng cường
nhịp độ hoạt động của mình, giành quyền kiểm soát các làng mạc và thôn xóm ở
các tỉnh Kiên Giang, An Xuyên và Chương Thiện, bao gồm cả Hưng Long, quận lỵ đầu
tiên bị mất ở vùng Đồng bằng.
Các cuộc tấn công từ tháng 3 đến
tháng 10 năm 1974 đã đạt được chính xác những gì mà giới lãnh đạo Bắc Việt mong
muốn. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã giành lại thế chủ động trong khi chiếm đóng
thêm lãnh thổ và tích lũy kinh nghiệm quý báu trong các hoạt động vũ trang kết
hợp cho các đơn vị mới của mình. Địch đã đánh bại lực lượng miền Nam, khiến họ
phải tiêu tốn một lượng lớn đạn dược, và làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chỉ
huy và binh sĩ thiện chiến, làm giảm thêm tinh thần chiến đấu của quân đội
trong quá trình này. Ngoài ra, họ đã bảo đảm các con đường tiếp cận và, trong một
số trường hợp, thậm chí là “điểm xuất phát” có thể được sử dụng cho cuộc tấn
công lớn khi nó xảy ra. Cùng lúc đó, lực lượng Bắc Việt tiếp tục tăng quân số
và thiết bị. Mặc dù Bắc Việt đã phải gánh chịu thương vong đáng kể trong các hoạt
động này, nhưng giờ đây họ đã nhận được sự thay thế nhanh hơn so với miền
Nam. Một ước tính của DAO cho biết đến
tháng 9 năm 1974, lực lượng Bắc Việt ở miền Nam đã tăng lên 10 sư đoàn, bao gồm
tổng lực lượng chiến đấu là 200.000 người, 700 xe tăng và 450 khẩu pháo. Nhiều
thiết bị và người hơn nữa đổ xuống Hành lang Trường Sơn, lúc này là một con đường
rộng hơn 8 mét, dùng được cho mọi thời tiết. Từ tuyến đường chính bắc-nam này,
các nhánh đường đã được xây dựng chạy về phía đông đến các mặt trận chiến đấu.
Theo tướng Văn Tiến Dũng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hệ thống này giống như
“những sợi dây thừng chắc chắn, vươn dài dần dần, ngày qua ngày quấn quanh cổ,
tay và chân của con quỷ, chỉ chờ lệnh là giật mạnh và kết liễu sinh vật đó”.
Nói một cách ít hoa mỹ hơn, lực lượng QĐNDVN đã giành được chiến thắng trên mọi
mặt trận và ngày càng mạnh hơn, trong khi miền Nam ngày càng yếu đi.
Nhận xét
Đăng nhận xét