BỎ RƠI VIỆT NAM:-47-“CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG LẦN BA”

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
NĂM ĐỊNH MỆNH
47-“CUỘC CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG LẦN BA”
Khi năm 1974, “Năm Dần”, bắt đầu, cuộc chiến vẫn tiếp diễn với miền Nam thể hiện khá tốt trước quân Bắc Việt trên chiến trường. Họ đã chiếm lại hầu hết lãnh thổ do kẻ thù chiếm giữ vào tháng 1 năm 1973, ngoại trừ một số căn cứ hỏa lực và tiền đồn biên giới biệt lập do quân Bắc giữ lại. Ngoài ra, họ đã chiếm lại 15 phần trăm tổng diện tích đất do quân BV kiểm soát tại thời điểm ngừng bắn, bao gồm 779 ấp đã hoàn toàn hoặc chủ yếu nằm dưới sự kiểm soát của Cộng sản sau cuộc chiếm đất năm 1973.  Những thành quả này phải trả giá đắt. Quân đội miền Nam đã chịu 25.473 thương vong trong trận chiến năm 1973, vượt quá bất kỳ năm nào trước đó trong cuộc chiến, ngoại trừ năm 1968, năm diễn ra cuộc tấn công Tết Mậu Thân và năm 1972, năm diễn ra cuộc xâm lược Phục sinh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bất chấp những tổn thất này, Cơ quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã báo cáo vào tháng 2 rằng Quân đội miền Nam đang tự mình chống đỡ và giữ được “thế cân bằng không dễ dàng” trên chiến trường.
 
Khi quân đội Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam vào năm 1973, Tổng thống Thiệu tự nhiên nắm quyền kiểm soát chiến lược của riêng mình. Một số ít người Mỹ còn lại trong Cơ quan Tình báo Chiến lược không có vai trò cố vấn cho Thiệu và các tướng lĩnh của ông về chiến lược sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Đại tá William Le Gro, giám đốc Cơ quan Tình báo Chiến lược, đã viết:
 
Thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam báo hiệu sự kết thúc của nỗ lực cố vấn của Hoa Kỳ tại quốc gia đó.  Các viên chức cấp cao của DAO đã cẩn thận tránh bất kỳ lời đề nghị tư vấn hoạt động nào cho người Việt Nam mà họ làm việc chặt chẽ và liên tục. Sự hỗ trợ kỹ thuật do các viên chức quân sự và dân sự cấp cao của DAO và các nhà thầu cung cấp là cần thiết cho quá trình hiện đại hóa và mở rộng của QLVNCH, nhưng quân đội miền Nam sẽ không nhận được lời khuyên nào về các hoạt động quân sự, chiến thuật hoặc kỹ thuật sử dụng. Cuộc chiến giờ thuộc về người Việt Nam, và họ phải chiến đấu một mình. QLVNCH biết phải làm gì nhưng phải được cung cấp khí tài phương tiện.
 
Trong khi một số ít người Mỹ còn lại quan tâm đến việc giúp miền Nam duy trì các công cụ chiến tranh, chiến lược của Thiệu vẫn đơn giản là “giữ tất cả lãnh thổ và bằng mọi giá”.  Như một trong những cố vấn của Thiệu đã mô tả, “Bất cứ nơi nào có cuộc tấn công hoặc xâm nhập của Cộng sản, lực lượng miền Nam phải phản ứng ngay lập tức.  Vì vậy, lá cờ của miền Nam phải ở khắp mọi nơi, ngay cả trên tiền đồn xa nhất của đất nước.”
 
Chiến lược của Thiệu có một số nhược điểm nghiêm trọng cuối cùng đã gây ra hậu quả thảm khốc cho chế độ Sài Gòn. Đầu tiên, QLVNCH, cố gắng tuân theo lệnh của tổng thống, đã bị kéo căng rất mỏng và luôn ở thế phòng thủ. Như vậy, họ chỉ có thể phản ứng với các động thái của Bắc Việt, những người có thể đặt ra các điều khoản của trận chiến và do đó đạt được ưu thế về số lượng tại địa điểm và thời điểm họ chọn. Theo Tướng Cao Văn Viên, cựu chủ tịch Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, lệnh của Thiệu “tương đương với việc hy sinh một số lượng lớn quân lính có thể được sử dụng hiệu quả ở nơi khác.”
 
Thứ hai, QĐVNCH  sở hữu một lực lượng dự bị chiến lược hạn chế, và ngay cả những lực lượng này cũng được giao nhiệm vụ phòng thủ cố định. Thứ ba, lực lượng dân quân địa phương bị trói buộc trong các tiền đồn nhỏ với ít hoặc không có khả năng cơ động.  Cuối cùng, QĐVNCH có rất ít quân để dự phòng cho bất kỳ nhiệm vụ tiếp theo nào nhằm ngăn chặn nỗ lực tiếp viện và tiếp tế khổng lồ của Bắc Việt đổ xuống Đường mòn Hồ Chí Minh vào các khu vực tập kết ở Lào và Campuchia. Do đó, chiến lược của Thiệu, đòi hỏi khả năng cơ động tối đa để ứng phó với mọi mối đe dọa của quân BV, đã dẫn đến điều ngược lại: hầu hết lực lượng của ông đều bất động và ở thế phòng thủ.
 
Ngay sau khi năm mới bắt đầu, Thiệu tuyên bố bắt đầu “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba”, nói rằng ông sẽ điều động lực lượng của mình thực hiện “các hành động trừng phạt thích hợp” sẽ được triển khai “không chỉ ngay trong các vùng kiểm soát của chúng tôi, mà còn ngay trong các khu vực mà quân đội Cộng sản Bắc Việt vẫn đóng quân” Theo đó, vào tuần thứ hai của tháng 2, Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Quân đoàn IV của QLVNCH đã ra lệnh cho lực lượng sư đoàn 7 và 9 tấn công Sư đoàn 5 của QĐNDVN (Sư đoàn 5 VC trước đây đã đóng vai trò chính trong trận đánh An Lộc năm 1972) tại khu vực Trị Pháp nằm giữa các tỉnh Định Tường, Kiến Phong và Kiến Tường ở Đồng bằng sông Cửu Long. Quân miền Nam đã bất ngờ tấn công quân Cộng sản, buộc họ phải rút lui với tổn thất nặng nề về người, đạn dược, và vật tư. Trong hai tháng tiếp theo, giao tranh dữ dội diễn ra tại khu vực Trị Pháp và QLVNCH đã thể hiện xuất sắc, tiêu diệt hơn một nghìn bộ đội Bắc Việt và thu giữ 5.000 tấn gạo, hơn 600 vũ khí, 8 tấn đạn dược và một lượng lớn thiết bị quân sự khác. Quân miền Nam bị thương 700 người, nhưng không tới 100 người tử trận. Trong quá trình này, ba trung đoàn của QDNDVN (Z-15, Z-18 và Đồng Tháp 1) đã bị tổn thất nặng nề. Đến cuối tháng 5, quân miền Nam đã kiểm soát vững chắc Tri Pháp và khu vực xung quanh.
 
Sư đoàn 5 Bắc Việt rút về khu vực Mỏ Vẹt ở Tỉnh Svay Rieng, Campuchia, ngay phía tây Sài Gòn. Từ vị trí đó, BV bắt đầu mở các cuộc tấn công vào các vị trí quân miền Nam ở các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa và Kiến Tường. Trung tướng Phạm Quốc Thuận, chỉ huy Quân đoàn III VNCH, quyết định tấn công địch tại các nơi ẩn náu của chúng ở Campuchia, bắt đầu triển khai hơn 20 tiểu đoàn cơ động xung quanh Mỏ Vẹt để chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào khu vực căn cứ của BV xung quanh Svay Rieng. Ngày 27 tháng 4, Thuận ra lệnh tiến quân và lực lượng bộ binh và thiết giáp QLVNCH đã tấn công. Các đoàn xe tăng tiến vào lãnh thổ Campuchia mười sáu km, và các đơn vị bộ binh được trực thăng vận đã chiếm giữ các vị trí chặn phía sau quân phòng thủ Bắc Việt. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt, nhưng QLVNCH, với sự hỗ trợ trên không tầm gần của Không quân Việt Nam, đã duy trì được đà tấn công cho đến ngày 10 tháng 5, khi lực lượng miền Nam rút lui về biên giới. Chiến dịch đã thành công: quân tấn công VNCH đã giết chết 1.200 quân Cộng sản, bắt thêm 65 tù binh, phá hủy một lượng lớn vật tư và làm gián đoạn liên lạc và hậu cần của địch trên khắp khu vực.
 
Tuy nhiên, những thành công này không kéo dài lâu và chiến dịch Svay Rieng  là cuộc tấn công lớn cuối cùng do lực lượng miền Nam tiến hành; năm 1974 sẽ chứng tỏ là một năm định mệnh đối với miền Nam.  Cuối cùng, chiến lược “giữ bằng mọi giá” của Thiệu sẽ kết hợp với hai yếu tố khác để định đoạt số phận của miền Nam. Hai yếu tố này là mất đi sự hỗ trợ của Hoa Kỳ và  tinh thần chiến đấu suy sụp nhanh chóng, cuối cùng sẽ dẫn đến sự thất thủ của Sài Gòn và sự sụp đổ của miền Nam như một quốc gia có chủ quyền. Mặc dù những sự kiện này sẽ không xảy ra cho đến năm 1975, nhưng con xúc xắc đã được gieo và “sự tan rã của miền Nam đã bắt đầu”.
 
Việc Mỹ rút quân đã để lại một khoảng trống mà miền Nam, mặc dù lực lượng QLVNCH đã tăng lên, nhưng không thể nào lấp đầy. Năm 1969, Hoa Kỳ và miền Nam đã triển khai chung 22 sư đoàn; năm 1974, miền Nam chỉ tập hợp được 13 sư đoàn. Ngược lại, lực lượng Cộng sản ở miền Nam đã lên tới 646 tiểu đoàn vào đầu năm 1974, tăng rất nhiều so với tổng số 352 của năm 1969. Do đó, sự chênh lệch về quân số tương đối giữa miền Nam và miền Bắc ngày càng lớn, khi lực lượng Bắc Việt tăng lên hàng ngày ở miền miền Nam.
 
Thậm chí còn quan trọng hơn việc Mỹ rút quân chiến đấu trên bộ là việc mất đi sức mạnh không quân của Hoa Kỳ, vốn không còn khả dụng đối với miền Nam.  Đối với một lực lượng đã quen phụ thuộc vào sự hiện diện liên tục của máy bay Hoa Kỳ để hỗ trợ, việc cắt giảm mạnh mẽ sức mạnh chiến đấu sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc. Trớ trêu thay, chính sách Việt Nam hóa của Nixon đã phát huy tác dụng rất tốt đến mức nó dạy cho người miền Nam cách chiến đấu “theo kiểu Mỹ”, sử dụng khả năng cơ động trên không, hỗ trợ trên không chiến thuật và chi tiêu xa xỉ đạn dược và quân dụng khác. Bây giờ họ thấy mình đang cố gắng tiến hành một cuộc chiến như vậy trong những tình huống mà sự hỗ trợ trên không, đạn dược, thiết bị và vật tư cần thiết hoặc là thiếu hụt hoặc không có sẵn. Tham gia vào cuộc đấu tranh sống còn với quân Bắc Việt, người miền Nam không muốn cũng không thể tái cấu trúc lực lượng và khái niệm tác chiến của mình để phù hợp với tình hình mới do việc cắt giảm mạnh viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Sài Gòn quyết định.
 
Một số nỗ lực đã được thực hiện để củng cố và tổ chức lại các đơn vị chiến đấu để phù hợp với tình hình mới.  Lực lượng dự bị chung được mở rộng (mỗi sư đoàn Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến đều nhận được một lữ đoàn bổ sung) và hai nhóm biệt động mới được tổ chức. Ngoài ra, Tham mưu trưởng Liên quân đã chuyển đổi các sở chỉ huy khu vực thành các nhóm chỉ huy khu vực di động, với hy vọng giải phóng các sư đoàn chính quy khỏi những lo ngại về lãnh thổ và cung cấp cho các khu vực quân sự một lực lượng chiến đấu đáng kể để đối đầu với các đơn vị lãnh thổ của kẻ thù.
 
Những nỗ lực tái tổ chức này kém hiệu quả vì chúng không giải quyết được vấn đề cốt lõi: phong cách chiến đấu của QLVNCH. Các lực lượng vẫn cố gắng chiến đấu theo cách chiến tranh của Mỹ, nhưng không có tất cả các hệ thống vật chất và vũ khí cần thiết mà họ yêu cầu. Như một quan sát viên đã phát biểu một cách chính xác, “QLVNCH phải tham gia cuộc chiến của một người giàu có với ngân sách của một người nghèo khổ.”
 
Thiệu và các tướng lĩnh của ông đã hành động như thể sự hỗ trợ của Mỹ được đảm bảo trong một tương lai vô thời hạn.  Khi người Mỹ rời đi vào năm 1973, miền Nam đã thực hiện một vài điều chỉnh và tiếp tục tiến hành chiến tranh trên cơ sở “hoạt động như thường lệ”. Cựu tư lệnh Sư đoàn 3 của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh sau này đã viết rằng “VNCH không thể nghĩ đến việc thắt lưng buộc bụng vì lý do đơn giản là viện trợ quân sự được dúi vào tay họ và không ai có thể lường trước được một ngày nào đó viện trợ này sẽ bị cắt giảm. Vì vậy, khi viện trợ đột nhiên bị cắt giảm, VNCH thực sự gặp rắc rối”. Cách mô tả của Hinh về viện trợ “dúi vào tay” còn gây tranh cãi, nhưng đánh giá của ông về kết quả của việc cắt giảm viện trợ chắc chắn là đúng.
 
Giếng bắt đầu cạn kiệt vào năm 1974. Trong năm 1972–73, miền Nam đã nhận được 2,2 tỷ đô la viện trợ của Hoa Kỳ. Trong năm 1973–74, con số đó đã giảm xuống còn 964 triệu đô la, giảm hơn 50 phần trăm. Đầu năm 1974, Thiếu tướng John Murray, DAO ở Sài Gòn, đã khuyên Đại sứ Martin rằng Thiệu và các tướng lĩnh của ông nên được thông báo rằng họ cần phải bắt đầu tiết kiệm ngay lập tức để tránh một cuộc khủng hoảng sau này. Lo sợ rằng điều này sẽ gây “bất ổn về mặt chính trị” đối với miền Nam, Martin đã cấm Murray đề cập đến vấn đề này.
 
Thoạt nhìn, có vẻ như miền Nam có đủ vật tư chiến tranh để tiếp tục cuộc chiến chống lại Bắc Việt vô thời  hạn. Họ đã nhận được 753 triệu đô la máy bay, trực thăng, xe tăng, pháo và các thiết bị quân sự khác theo chương trình Tăng cường và Tăng cường Thêm. Tuy nhiên, như đã thảo luận ở trên, phần lớn các thiết bị này không phù hợp với nhu cầu của QLVNCH hoặc không thể sử dụng và bảo dưỡng vì miền Nam không thể đáp ứng các yêu cầu về quản lý và đại tu để duy trì hoạt động. Do đó, phần lớn thiết bị mới, như một quan chức Hoa Kỳ đã lưu ý, vẫn nằm trong kho “ngồi chơi xơi nước và rỉ sét”. Thật không may, chỉ riêng sự hiện diện của số lượng đồ sộ thiết bị này đã mang lại cho miền Nam cảm giác an toàn giả tạo khi họ cho rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cung cấp phụ tùng, nhiên liệu và đạn dược cần thiết để vận hành các loại vũ khí và máy móc mới.
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến