BỎ RƠI VIỆT NAM:
46-NGỪNG BẮN & HÒA BÌNH GIẢ TẠO
Khi lệnh ngừng bắn đến gần, Bắc Việt, không thể theo đuổi một cuộc tấn
công quân sự toàn bộ, đã quyết định nhấn mạnh vào cuộc đấu tranh chính trị, dân
vận, nhằm giành được người dân miền Nam . Tướng Giáp, vốn đã mất uy tín vì thất
bại của cuộc tấn công Nguyễn Huệ năm 1972, đã thúc đẩy một cuộc tổng tấn công
vào Miền Nam, nhưng với việc Hoa Kỳ vẫn hứa viện trợ cho Thiệu, Ủy ban Trung
ương đã bác bỏ ý tưởng này vì quá nguy hiểm.
Thay vào đó, các thành viên ủy ban đã chọn tiếp tục theo đuổi một “con
đường bạo lực cách mạng” kín đáo hơn nhưng liên tục chống lại miền Nam, con đường
sẽ dẫn đến “nửa chiến tranh, nửa hòa bình” để duy trì áp lực lên Sài Gòn. Bộ
Chính trị đã ban hành lệnh thực hiện các chương trình được thiết kế để xúi giục
dân chúng, đẩy mạnh các phong trào quần chúng và củng cố cơ sở hạ tầng chính trị.
Các hoạt động quân sự chỉ hỗ trợ “cuộc đấu tranh chính trị làm cơ sở”, và hành
động quân sự có vũ trang sẽ được tiến hành theo tình hình mới sau lệnh ngừng bắn.
Bên cạnh việc chiếm lãnh thổ ở miền Nam, giới lãnh đạo Bắc Việt đã ra lệnh tăng
cường chiến dịch tuyên truyền để giành được dư luận quốc tế, làm mất uy tín của
QĐVNCH và giành được sự ủng hộ của người dân miền Nam .
Một khoảnh khắc bình yên ngắn ngủi diễn ra sau khi lệnh ngừng bắn được thực
hiện, nhưng rồi chẳng mấy chốc sau đó giao tranh dữ dội đã nổ ra trên khắp miền
Nam khi cuộc lấn chiếm đất gia
tăng. Đại sứ Bunker sau đó đã viết,
trích lời một viên chức bình định của Hoa Kỳ tại tỉnh Lâm Đồng, rằng “lệnh ngừng
bắn dường như đã khởi đầu một cuộc chiến tranh mới, dữ dội và tàn khốc hơn lần
trước”. Hơn 3.000 vụ vi phạm lệnh ngừng bắn đã xảy ra trong 3 tuần đầu tiên sau
khi chính thức ngừng giao tranh. Hầu hết các hành động này là những trận chiến
nhỏ, do các lực lượng địa phương tiến hành, nhưng trong tuần đầu tiên của lệnh
ngừng bắn, quân BV đã chiếm được 213 thôn. Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài ngày,
quân miền Nam đã chiếm lại được tất cả
trừ 36 thôn. Thay vì chỉ là “một cơn co giật bạo lực cuối cùng” trước khi lệnh
ngừng bắn có hiệu lực, những trận chiến này đúng là sự chuyển tiếp từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác của cuộc xung đột, theo một nhà quan sát quân sự người
Mỹ, là “sự kết thúc của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và sự khởi đầu
của cuộc chiến tranh thứ ba”. Một trung sĩ miền Nam đã mô tả tình hình một cách đơn giản hơn khi
anh ta nói rằng, “Cuộc chiến này sẽ không bao giờ kết thúc”.
Bên cạnh những trận đánh nhỏ ban đầu, Bắc Việt đã phát động một số cuộc tấn
công lớn hơn để bảo vệ các vị trí có lợi về mặt chiến lược có thể được sử dụng
làm điểm xâm nhập vật tư và thiết bị chiến tranh hoặc để che chắn sự xâm nhập
xuống Đường mòn Hồ Chí Minh. Vào ngày 26 tháng 1, Sư đoàn NT-2 của BV đã tấn
công và chiếm cảng Sa Huỳnh, nằm ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi thuộc Quân khu I,
nhưng đến cuối tháng 2, Sư đoàn 2 VNCH đã đánh đuổi các đơn vị BV và chiếm lại
thị trấn. Vào tháng 3, Sư đoàn 9B của Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công lớn
từ Campuchia với ba trung đoàn vào thị trấn Hồng Ngự của miền Nam, một cảng
trên Sông Cửu Long thuộc Tỉnh Kiến Phong ở Đồng bằng sông Cửu Long (Quân khu
IV) ngay phía nam biên giới Campuchia. Hoa Kỳ, vẫn đang ném bom ở Campuchia, đã
hỗ trợ miền Nam bằng cách tấn công các
căn cứ của Bắc Việt tại đó bằng B-52; đến
tháng 5, Sư đoàn 9 của QLVNCH đã chiếm lại Hồng Ngự. Đầu tháng 6 năm 1973, Sư
đoàn F-10 của QĐNDVN đã tấn công và chiếm được Trường Nghĩa, cách thành phố
Kontum sáu dặm về phía tây ở Quân khu II. Một loạt các trận đánh lớn diễn ra ở
các tỉnh Kontum và Pleiku giữa các sư đoàn F-10 và 320 của quân BV và Sư đoàn
23 của quân miền Nam. Sau một số cuộc giao tranh đẫm máu, QLVNCH đã buộc lực lượng
Cộng sản phải rút lui. Cùng lúc đó, quân BV đã tấn công Căn cứ Hải quân Cửa Việt
ở Quân đoàn I và trại biên phòng ở Tống Lê Chơn ở Quân khu III. Trong những trận
đánh này, quân miền Nam đã chiến đấu rất hăng hái nhưng buộc phải từ bỏ Cửa Việt;
Tống Lê Chơn đã kháng cự, nhưng đã bị bao vây. Trong trận chiến giành Căn cứ Hải
quân Cửa Việt, quân miền Nam mất gần hai đại đội súng trường và một đại đội xe
tăng M-48 nhưng đã gây ra khoảng 1.000 thương vong cho quân BV. Các trận chiến
trong ba tháng đầu tiên của hiệp định đình chiến đã gây ra thương vong nặng nề
cho cả hai bên. Hơn 6.600 binh lính miền Nam
đã tử trận trong thời gian này và hơn 200.000 dân tị nạn đã phải rời bỏ
nhà cửa và làng mạc.
Ngoài các hoạt động chiếm đất, Cộng sản đã chặn các tuyến thông tin liên
lạc, pháo kích vào các thành phố và thị trấn do QLVNCH kiểm soát và khởi xướng
một “chiến dịch cắm cờ” với lá cờ xanh và đỏ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam tại
các khu vực do họ kiểm soát. Các lực lượng miền Nam đã kháng cự và “Cuộc Chiến giữa những Lá cờ”
đã xảy ra. Một tuần sau lệnh ngừng bắn, gần như tất cả gần 400 thôn mà Cộng sản
xâm nhập đã trở lại dưới sự kiểm soát của Sài Gòn.
Sau này, Kissinger đã viết về giai đoạn này: “Sài Gòn, vẫn là bên mạnh
hơn… đã cho đi những gì họ nhận được; nó
mở rộng quyền kiểm soát của mình đối với nhiều thôn xóm hơn là những gì đã mất.”
Khi cả hai bên tranh giành vị trí sau lệnh ngừng bắn, sự gia tăng quân BV
tiếp tục không ngừng và lực lượng Cộng sản ngày càng mạnh hơn. Các báo cáo tình
báo chỉ ra rằng trong nửa đầu năm 1973, BV đã đưa 65.000 tân binh vào miền Nam
. Vào tháng 7 năm 1973, Thiếu tướng Murray, tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ tại Sài
Gòn, đã báo cáo trong bản đánh giá hàng quý của mình: “Vị thế của kẻ thù sau cuộc
tấn công vào lễ Phục sinh năm 1972, sự vi phạm trắng trợn của họ trong việc
tuân thủ Hiệp định Ngừng bắn và sự kết thúc sắp tới của không lực Hoa Kỳ tại
Đông Dương, khiến họ mạnh hơn bao giờ hết. Việc họ xây dựng mới đường sá, đường
ống, sân bay và đường dây liên lạc trên bộ, việc họ đầu tư xe tăng, pháo tầm xa
và vũ khí phòng không, việc họ tích trữ các nguồn lực hậu cần là điều thật đáng
sợ.”
Thật vậy, ước tính tình báo trong cùng tháng với báo cáo của DAO ước tính
rằng Bắc Việt đã tích lũy đủ quân và vật chất ở miền Nam để hỗ trợ một chiến dịch quy ước kéo dài từ
12 đến 18 tháng theo kiểu 1972. Ủy ban Kiểm soát Quốc tế của Hiệp định Paris,
không thể kiểm soát tình hình hoặc ngăn chặn các hành vi vi phạm lệnh ngừng bắn,
đã ngừng hoạt động trong vòng vài tháng sau khi thành lập.
Báo động trước các báo cáo tình báo về sự gia tăng quân số của Bắc Việt
và việc tiếp tục gia tăng vì phạm lệnh ngừng bắn, Thiệu đã bay đến Hoa Kỳ để hội
đàm với Tổng thống Nixon vào đầu tháng 4. Tuy nhiên, Nixon có những mối quan
tâm cấp bách hơn. Vụ bê bối Watergate đang trầm trọng, và tổng thống bị phân
tâm bởi cuộc tranh cãi ngày càng gia tăng. Thiệu phàn nàn về việc BV vi phạm lệnh
ngừng bắn và nói với Nixon rằng các báo cáo đáng tin cậy chỉ ra rằng Cộng sản
đang chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công. Thiệu thấy Nixon “lo ra và đãng trí”
trong cuộc họp, nhưng Nixon vẫn không quên nhắc lại lời hứa trước đây là sẽ hỗ
trợ Sài Gòn, trấn an, “Ngài có thể tin tưởng vào chúng tôi”. Ông nói với Thiệu
rằng Hoa Kỳ sẽ tài trợ cho chương trình hiện đại hóa QLVNCH, nói về viện trợ
quân sự ở mức “một tỷ đô la”. Sau khi
nói như vậy, ông thúc giục Thiệu quay trở lại miền Nam và cố gắng thực hiện lệnh ngừng bắn. Khi tổng
thống miền Nam lên trực thăng để rời khỏi
khu nhà ở tổng thống tại San Clemente, Nixon lại nói với ông, “Ngài có thể chắc
chắn rằng chúng tôi ủng hộ ngài”. Bất chấp
những lời hứa và lời động viên của Nixon dành cho Thiệu, Kissinger sau đó đã viết
rằng “Nixon rõ ràng không muốn có thêm bất ổn về Đông Dương vào lúc tình hình
trong nước ngày càng gia tăng khó khăn cho mình”.
Thiệu, không biết về đánh giá của Kissinger và muốn tin vào lời hứa tiếp
tục hỗ trợ của Nixon, đã trở về Sài Gòn. Khi máy bay của ông cất cánh từ
California, ông đã tổ chức tiệc mừng sâm panh để đánh dấu sự hân hoan và nhẹ
nhõm của mình sau cuộc hội đàm với Nixon. Ông vẫn lo sợ rằng Nixon không thể
duy trì những lời hứa này mãi mãi và nghĩ rằng Hoa Kỳ cuối cùng sẽ từ bỏ miền
Nam . Tuy nhiên, hiện tại, ông tin rằng Nixon sẽ can thiệp bằng không quân Hoa
Kỳ để cứu miền Nam. Quan niệm sai lầm của
ông đã được củng cố phần lớn bởi các hoạt động của Văn phòng Tùy viên Quốc
phòng tại Sài Gòn và Nhóm Hoạt động Hỗ trợ Hoa Kỳ tại Nakhon Phanom, Thái Lan.
Bốn chỉ huy quân đoàn QLVNCH đã được đưa đến Nakhon Phanom và được thông báo về
các thủ tục để yêu cầu Hoa Kỳ phát động không kích. Thiết bị liên lạc bí mật đã
được lắp đặt kết nối các chỉ huy quân đoàn và Bộ Tổng tham mưu Liên quân tại
Sài Gòn với trụ sở Hoa Kỳ tại Thái Lan. Các kế hoạch của QĐVNCH sau đó sẽ dựa
trên giả định luôn sẵn có B-52 và hỗ trợ không quân tầm gần; không ai ở phía
Hoa Kỳ khuyến khích việc lập kế hoạch như vậy. Các chỉ huy Việt Nam thường
xuyên nộp danh sách mục tiêu cho DAO để chuyển đến Nhóm Hoạt động Hỗ trợ và
Không lực 7 Hoa Kỳ Theo cựu tướng VNCH Đồng Văn Khuyên, “Các nhà lãnh đạo của
chúng tôi vẫn tiếp tục tin vào sự can thiệp của không quân Hoa Kỳ ngay cả sau
khi Quốc hội Hoa Kỳ rõ ràng đã cấm điều đó. . .
. Họ tự lừa dối mình khi nghĩ rằng có lẽ điều này chỉ mất nhiều thời
gian hơn vì những thủ tục phức tạp liên quan.”
Với quan niệm sai lầm rằng không quân Hoa Kỳ sẽ đến nếu tình hình trở nên
đủ tồi tệ, Thiệu quyết định tăng cường nỗ lực để giành mọi lợi thế trước kẻ thù
Cộng sản trước khi Nixon bị trói tay bởi Quốc hội và sự hỗ trợ đã hứa không còn
nữa. Ông nhấn mạnh vào điều được gọi là “Bốn Không”: không đàm phán với kẻ thù,
không có hoạt động của Cộng sản ở phía nam Khu phi quân sự, không có chính phủ
liên minh và không đầu hàng lãnh thổ cho BV hoặc Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Chính sách của ông gần như đã thủ tiêu Hiệp định Paris. Điểm cuối cùng là then
chốt: Việc Thiệu từ chối từ bỏ lãnh thổ sẽ là một trong những lý do dẫn đến sự
sụp đổ cuối cùng của ông và đất nước ông.
Mong muốn kiên quyết của ông là giữ toàn bộ lãnh thổ sẽ dẫn đến hậu quả
thảm khốc vào năm 1974 và 1975, khiến ông phải dàn mỏng lực lượng, đặc biệt là ở
các vùng biên giới xa xôi, và do đó làm giảm khả năng sẵn có của quân đội vốn
có thể được sử dụng tốt hơn làm lực lượng dự bị cơ động ở những nơi khác trong
các khu vực quan trọng hơn.
Ngay sau khi Thiệu trở về Sài Gòn, Kissinger lại gặp Lê Đức Thọ tại Paris
để thảo luận về lệnh ngừng bắn. Thật không may, Hoa Kỳ, với Nixon bị chỉ trích
vì vụ Watergate và với tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam, đang ở
trong một vị thế khó khăn để đòi hỏi những nhượng bộ từ Bắc Việt. Khi Kissinger
cáo buộc Cộng sản đã vi phạm lệnh ngừng bắn, Thọ phản bác Sài Gòn chịu trách
nhiệm cho tình hình giao tranh liên tục. Điều tốt nhất mà Kissinger có thể
giành được từ Thọ là một cam kết mới về lệnh ngừng bắn. Trên thực tế, Thọ đã
đúng; chính sách “Bốn không” của Thiệu đã vi phạm trực tiếp văn kiện, cũng như
mục đích của Hiệp định hòa bình Paris. Kết quả của vòng thảo luận mới tại Paris
là vào ngày 13 tháng 6, cả bốn bên ký kết Hiệp định Paris đã ban hành một
“thông cáo chung” tái khẳng định việc thực thi lệnh ngừng bắn. Những gì được biết đến ở Sài Gòn là “Ngừng bắn
II” hoặc “Ngừng bắn Con” ban đầu có vẻ hiệu quả, vì không ai vi phạm trắng trợn
lệnh ngừng bắn trong một thời gian, nhưng sau đó giao tranh lại tiếp tục với cường
độ như cũ.
Vào ngày 22 tháng 9, Sư đoàn 320 của BV, sử dụng một trung đoàn bộ binh
được hỗ trợ bởi xe tăng, đã tấn công và tràn vào trại biên giới của Biệt động
quân Lê Minh, cách Pleiku 25 dặm về phía tây. Trại nằm trên địa hình chiếm ưu
thế là tuyến đường xâm nhập từ hạ Lào vào Cao nguyên Trung phần. Sau khi chiếm
được Lê Minh, Cộng sản sau đó tấn công một chuỗi dài các tiền đồn biên giới được
thiết kế để kiểm soát sự xâm nhập của đối phương và thu thập thông tin tình
báo. Bắc Việt rõ ràng đang cố gắng bảo vệ các tuyến đường xâm nhập bắc-nam của
họ để chuẩn bị cho hành động tấn công mới.
Thiệu biết rằng Bắc Việt đang tăng cường lực lượng của họ ở miền Nam và sức
mạnh của họ đang tăng lên hàng ngày. Để
tận dụng lợi thế về quân sự của mình vào lúc này, ông đã đưa QLVNCH vào thế tấn
công. Theo đó, lực lượng miền Nam đã tấn công vào vùng đất thấp ven biển, Đồng
bằng sông Cửu Long, khu vực miền núi phía tây gần Campuchia và các tỉnh xung
quanh Sài Gòn. Thật không may, QĐNDVN, liên tục cải thiện thế trận tấn công của
mình bằng việc xâm nhập nhanh chóng lực lượng thay thế, thiết bị và các đơn vị mới,
đã mạnh hơn nhiều so với những gì Thiệu tưởng tượng. Quân đội miền Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh bật
kẻ thù, đặc biệt là những đơn vị chiếm giữ các khu vực xung quanh thủ đô đã chiếm
được trong cuộc tấn công năm 1972. Không quân Việt Nam đã cố gắng hỗ trợ trong
những trận chiến này, nhưng phần lớn tỏ ra không hiệu quả trong việc cung cấp hỗ
trợ trên không tầm gần. Do sự tập trung mới của pháo phòng không và tên lửa đất
đối không vác vai SA-7 do QĐNDVN đưa vào vi phạm thỏa thuận ngừng bắn, các phi
công Không lực Việt Nam Cộng Hòa buộc phải duy trì cao độ và hầu hết các quả
bom của họ đã rơi xuống cách mục tiêu hàng dặm.
Một vị tướng không quân miền Nam
sau đó đã tâm sự rằng kết quả kém là do “nhắm mục tiêu kém, thực hiện
kém và tinh thần của Không quân Việt Nam thấp”.
Quân miền Nam thấy mình đang ở
trong một cuộc chiến sinh tồn. Fox Butterfield đã đưa tin đánh giá sau đây về
“lệnh ngừng bắn” trong một bài báo trên tờ New York Times vào tháng 9:
. . . mặc dù lực lượng quân sự Mỹ cuối cùng đã rút lui, các sĩ quan Việt
Nam cho biết, vụ nổ súng vẫn tiếp diễn không hề suy giảm, với trung bình 100
lính miền Nam tử trận hoặc bị thương mỗi
ngày trong năm nay chỉ riêng ở Đồng bằng. Tỷ lệ này bằng với số thương vong
trong cuộc tấn công lớn của cộng sản năm ngoái và cao hơn nhiều giai đoạn trước
trong cuộc chiến tranh bất tận.
Cho đến nay, tất cả những gì bạn có thể nói một cách chính xác về tình
hình kể từ khi có lệnh ngừng bắn, một viên chức Mỹ giàu kinh nghiệm nhận xét,
là cả hai bên đều đang đẩy mạnh các chương trình riêng của mình và họ sẽ tiếp tục
xung đột.
Khi lực lượng của Thiệu cố gắng ngăn chặn Cộng sản, nỗi sợ hãi tồi tệ nhất
của Tổng thống miền Nam về việc Hoa Kỳ không còn hỗ trợ liên tục bắt đầu trở
thành hiện thực. Khi lệnh ngừng bắn sắp đến, nhiều quan chức Hoa Kỳ cho thấy là
họ đã sẵn sàng chấm dứt dây dưa với miền Nam. Vào đầu tháng 1 năm 1973, Bộ trưởng
Quốc phòng Laird nói với các nhà báo rằng QLVNCH “hoàn toàn có khả năng” bảo vệ
quốc gia của mình, điều này bảo đảm “sự chấm dứt hoàn toàn sự tham gia của Hoa
Kỳ”. Không phải tất cả mọi người trong chính quyền Nixon đều đồng ý với Laird,
nhưng phe ủng hộ việc tiếp tục hỗ trợ cho Sài Gòn sẽ thấy ngày càng khó khăn
hơn để phản đối phe chia sẻ quan điểm của Laird.
Khi vụ bê bối Watergate trở thành một vấn đề nóng hổi, bản thân Nixon
phải đối mặt với một Quốc hội thù địch.
Khi ông ngày càng lún sâu vào vụ bê bối Watergate, Quốc hội đã khẳng định
mình và bắt đầu nắm giữ vị thế thống trị trong việc đưa Hoa Kỳ hoàn toàn thoát
khỏi cuộc chiến ở Đông Nam Á. Vào tháng 6 năm 1973, Quốc hội đã thông qua luật
cắt mọi nguồn quỹ cho hoạt động chiến đấu trên không hoặc trên bộ ở Campuchia
và Lào. Tổng thống đã phủ quyết dự luật, nhưng sau một loạt các động thái lập
pháp, vào ngày 1 tháng 7, Quốc hội đã thông qua và tổng thống miễn cưỡng ký một
dự luật cấm các hoạt động chiến đấu trực tiếp hoặc gián tiếp trên không hoặc
trên bộ tại hoăc gần Lào, Campuchia và cả Việt Nam sau ngày 15 tháng 8 năm
1973. Nixon không hài lòng với diễn biến của sự kiện, nhưng vào thời điểm này,
ông gần như hoàn toàn bị cuốn vào vụ bê bối Watergate.
Ngoài ra, các sự kiện khác đã thu hút sự chú ý của ông và công chúng Hoa
Kỳ. Vào mùa thu năm 1973, chiến tranh nổ ra giữa Israel và Syria và Ai Cập. Lệnh cấm vận dầu mỏ tiếp theo của Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hoa Kỳ và
phần còn lại của thế giới công nghiệp vào mùa đông năm 1973–74. Bị bao vây bởi
những khó khăn này, và với tất cả quân đội Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam và các tù binh chiến tranh cuối cùng đã trở về
nhà, rất ít người Mỹ quan tâm đến các sự kiện ở Nam Việt Nam. Nỗi sợ hãi của
Thiệu về việc bị Mỹ bỏ rơi dường như đã trở thành sự thật.
Nixon, người đang tham gia vào một cuộc chiến tranh ảo với Quốc hội, đã gặp
rắc rối lớn. Vào ngày 21 tháng 10, ông đã sa thải Archibald Cox, công tố viên đặc
biệt đang điều tra vụ Watergate. Vụ sa thải đã gây ra một làn sóng phản đối dữ
dội, và các dân biểu Hạ viện đã bắt đầu tiến trình luận tội tổng thống. Quyền lực
tổng thống và khả năng tác động đến hành động ở Đông Nam Á của Nixon đã thực sự
biến mất.
Quốc hội, lo ngại về tình hình tiếp tục giao tranh ở miền Nam, Campuchia,
và Lào, đã thực hiện các biện pháp hạn chế thẩm quyền của tổng thống và vào
ngày 7 tháng 11 đã bác bỏ quyền phủ quyết của Nixon đối với Đạo luật Quyền hạn
Chiến tranh. Theo luật này, tổng thống được yêu cầu phải thông báo cho Quốc hội,
nếu có thể, trước khi đưa lực lượng Hoa Kỳ vào khu vực có thể xảy ra giao
tranh. Sau khi lực lượng đó được triển khai, họ không được ở lại quá 60 ngày trừ
khi Quốc hội cấp cho họ thẩm quyền cụ thể để ở lại. Luật này không cụ thể cấm
Hoa Kỳ hỗ trợ miền Nam , nhưng luật này khiến việc cung cấp hỗ trợ trở nên khó
khăn hơn nhiều. Quốc hội đã đưa ra một dấu hiệu khác về ý định liên quan đến cuộc
chiến ở Đông Nam Á khi sửa đổi dự luật viện trợ quân sự năm tài chính 1974 cho
Việt Nam. Chính quyền đã yêu cầu 1,6 tỷ đô la viện trợ, nhưng Quốc hội đã giảm
con số xuống còn 1,126 tỷ đô la. Dự luật viện trợ và những tác động của cuộc đấu
đá giữa Quốc hội và tổng thống về việc Hoa Kỳ hỗ trợ miền Nam không lọt qua mắt của các nhà lãnh đạo Bắc Việt,
họ hiểu ngay là Nixon, bị tổn thương nghiêm trọng bởi vụ bê bối Watergate, sẽ rất
khó để làm bất cứ điều gì nếu Cộng sản nâng cao mức độ nguy hiểm ở miền Nam .
Theo thời gian, viện trợ của Hoa Kỳ cho Thiệu và chính phủ của ông dường như
ngày càng ít có khả năng xảy ra. Theo
đó, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội nghị toàn thể lần
thứ 21 của Đảng vào tháng 10 năm 1973 để đánh giá lại chiến lược của họ và thảo
luận về cách tiến hành. Các lực lượng Cộng sản, trước đó không đủ mạnh ở miền
Nam để tiến hành một cuộc tấn công quân sự toàn diện, đã tập trung hành động
quân sự để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị. Tuy nhiên, vào thời điểm diễn
ra hội nghị toàn thể vào tháng 10 năm 1973, người Cộng sản đã xây dựng lại lực
lượng của họ ở miền Nam và ngày càng mạnh hơn. Tại cuộc họp này, Tướng Văn Tiến
Dũng, người đã thay thế Giáp làm người hoạch định quân sự chính của Bắc Việt
Nam, đã chủ động một cuộc tổng tiến công mới, nói rằng, “Bọn đế quốc Mỹ sẽ thấy
rất khó để can thiệp trực tiếp. . . . Họ không thể cứu chế độ Sài Gòn khỏi sự sụp
đổ.” Tuy nhiên, giới lãnh đạo dân sự của Bộ Chính trị, bao gồm Thủ tướng Phạm
Văn Đồng và Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã khuyến cáo thận trọng. Sau khi chứng kiến những tác động của không
quân Hoa Kỳ trong cuộc tấn công Nguyễn Huệ, họ cảm thấy rằng việc tiến hành
hành động tổng tấn công mà không có sự hậu thuẫn của Liên Xô và Trung Quốc có
thể dẫn đến việc tái triển khai quân đội Hoa Kỳ. Ngoài ra, họ tin rằng một cuộc
tổng tấn công sẽ làm cạn kiệt nguồn lực từ nỗ lực tái thiết miền Bắc. Sau nhiều
cuộc thảo luận, hai phe đã đạt được một thỏa hiệp. Bắc Việt quyết định tăng áp
lực lên Sài Gòn bằng cách chuyển những nỗ lực của họ ở miền Nam từ trọng tâm chính là đấu tranh chính trị,
sang một nỗ lực nhấn mạnh vào hành động quân sự, “chiến tranh trong hòa bình,”
để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công quân sự vào một thời điểm nào đó trong
tương lai sau khi lực lượng đã được xây dựng đủ để hỗ trợ cho một động thái như
vậy. Nhận thấy rằng cuộc đấu tranh sẽ “kéo dài và phức tạp” và chiến thắng có
thể mất nhiều năm, họ đã ra lệnh cho “tất cả các sĩ quan và binh lính của quân
đội chính quy, quân đội địa phương, dân quân và tất cả các lực lượng du kích, vệ
binh và an ninh trên khắp miền Nam … phản
công chính quyền Sài Gòn chừng nào họ còn chưa ngừng các hành động chiến tranh,
bất kỳ nơi nào và bằng hình thức và vũ lực thích hợp, do đó buộc bên kia phải
thực hiện nghiêm túc và thận trọng Hiệp định Paris và chấm dứt hoàn toàn mọi
hành động chiến tranh và phá hoại của họ.” Ngoài sự thay đổi chiến lược quan trọng
này, Hội nghị toàn thể lần thứ 21 cũng quyết định các biện pháp sau: tăng cường
các nỗ lực chính trị và tuyên truyền chống lại Hoa Kỳ để Quốc hội cắt giảm thêm
viện trợ cho miền Nam ; cải thiện “hành lang hậu cần” xuống biên giới miền
Nam từ Khe Sanh đến Lộc Ninh để cung cấp
hỗ trợ cho cuộc tấn công được đề xuất; leo thang các cuộc tấn công vào các tiền
đồn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa; và tiếp tục gây áp lực quân sự lên Sài Gòn
và các thành phố lớn khác để ngăn chặn sự dịch chuyển của lực lượng miền Nam .
Gần như ngay lập tức, miền Nam cảm
nhận được tác động của các quyết định định mệnh của Hội nghị Trung ương 21. Đòn
đánh đầu tiên của chiến dịch mới xảy ra ở tỉnh Quảng Đức, dọc biên giới
Campuchia, nơi một lực lượng Bắc Việt Nam có quy mô sư đoàn đã tràn ngập các tiền
đồn của quân miền Nam tại Bu Prăng và Bu
Bông. Hai ngày sau, một trung đoàn khác của BV đã đánh tan lực lượng phòng thủ
tại Dak Song, cắt đứt Gia Nghĩa, thủ phủ của Tỉnh Quảng Đức, và cắt đứt con đường
duy nhất đến Tỉnh Phước Long. Sau đó, quân BV ở Bu Bông đã tấn công về phía nam
hướng đến huyện thị Kiến Đức, tiến đến vùng ngoại ô của thành phố vào ngày 21
tháng 11. Tại đó họ đã bị các đơn vị của Sư đoàn 23 VNCH chặn lại. Trong khi
đó, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, đã ra lệnh cho Trung
đoàn Bộ binh 44 chiếm lại ngã ba đường quan trọng tại Dak Song, và họ đã làm được
điều đó vào ngày 28 tháng 11. Lực lượng
miền Nam đã tự giải thoát tương đối tốt
cho đến ngày 4 tháng 12 khi Trung đoàn 205 của BV được tăng cường xe tăng và
công binh, đã đẩy QLVNCH ra khỏi Kiến Đức. Tuy nhiên, vài ngày sau, Trung đoàn
Bộ binh 45 miền Nam đã phản công và chiếm lại thành phố.
Chiến lược quân sự mới của Bắc Việt đã trở nên rõ ràng trên khắp miền Nam
. Cuộc giao tranh diễn ra dữ dội, đặc biệt là tại các căn cứ và tiền đồn xa xôi
ở các vùng ngoại vi và dọc theo “con đường lúa gạo” từ Đồng bằng sông Cửu Long
đến Sài Gòn, nơi cả hai bên đều mất hàng nghìn binh lính. Quân đội Nhân dân Việt
Nam đã bắn tên lửa vào Căn cứ Không quân Biên Hòa, phá hủy ba máy bay phản lực
F-5A, và đặc công BV đã tấn công kho chứa
xăng dầu Nhà Bè trên sông Sài Gòn, đốt cháy hơn chín triệu gallon nhiên liệu. Vào giữa tháng 12, lực lượng Cộng sản đã tấn
công một nhóm của Trung tâm Giải quyết Thương vong Chung của Hoa Kỳ tại Bình
Chánh, chỉ cách Sài Gòn 16 km về phía tây nam, giết chết Đại úy Richard M.
Rees.
Vào cuối năm, cuộc chiến ở miền Nam
vẫn tiếp diễn không ngừng. Báo cáo cuối cùng của Văn phòng Tùy viên Quốc
phòng Hoa Kỳ năm 1973 nêu rõ, “Cuộc chiến vẫn tiếp diễn với rất ít sự tuân thủ
các hiệp định từ cả hai bên”. Nhìn chung, hiệu suất chiến đấu của miền Nam trong giai đoạn sau lệnh ngừng bắn là thỏa
đáng. Đại sứ Graham Martin, người thay thế Ellsworth Bunker tại Sài Gòn, đã
trích dẫn những thành quả trên chiến trường miền Nam như một lập luận cho sự tiếp tục hỗ trợ của
Hoa Kỳ. Ông lưu ý rằng “sự tự tin ngày càng rõ ràng và tinh thần lạc quan của
Chính phủ Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa” và tuyên bố, “Quân lực Việt
Nam Cộng hòa cho đến nay không chỉ giữ vững mà còn khiến phe địch mất cân bằng. Nếu chúng ta tiếp tục ủng hộ, và quyết tâm thực
hiện các cam kết đã đưa ra ở cấp cao nhất, chúng ta có quyền kỳ vọng một cách đầy
tin cậy rằng Chính phủ Việt Nam có thể trụ vững mà không cần sự can thiệp vũ
trang của Hoa Kỳ.”
Sự ủng hộ mà Martin thúc giục mạnh mẽ đã không đến. Miền Nam đã tự mình chống đỡ trong cuộc giao tranh năm
1973, nhưng “hạt giống của thảm họa” đã được gieo—một Quốc hội Hoa Kỳ thù địch
và “hầu như chắc chắn sẽ không có sự trả đũa nào của Hoa Kỳ” khi Bắc Việt công
khai vi phạm Hiệp định Paris trong tương lai. Những hạt giống độc hại này sẽ bắt
đầu đơm hoa kết trái cho người miền Nam vào năm 1974, và hoa trái đó sẽ trở nên
chết chóc vào năm 1975 khi Việt Nam hóa không vượt qua được thử thách cuối
cùng.
Nhận xét
Đăng nhận xét